|
Phạm Ngọc Lũy(20.11.1919 - 21.12.2022) | Quách Tấn(4.1.1910 - 21.12.1992) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Thơ Tự Thọ (Họa Thơ Dương Khuê)
Thơ Cảm Xuân (Họa Thơ Nguyễn Khuyến)
Ba Trăm Năm Sau (Họa Thơ Bàng Bá Lân)
Hoàng Hạc Lâu (Dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)
Kể từ đây đã sáu mươi ngàn lần
Mặt trời mọc ở phương Ðông ngùn ngụt lửa
Mặt trời lặn ở phương Ðoài máu chứa chan.
Kể từ đây cũng đã sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng thiêng đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam.
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn
Hãy dừng lại thời gian
Trả lời ta - có phải
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san.
Sóng hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà mộng lớn huy hoàng
Vẫn nghìn thu còn mãi
Vẫn nghìn thu người áo vải đất Quy Nhơn.
Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Ðống Ða một trận năm đường giáp công
Ðạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất đỏ sông máu màng
Giờ đây lại đã xuân sang
Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ
Ai kia lòng có chợt mang mang
Ðầy vơi sầu xứ
Hãy cùng ta
Ngẩng đầu lên
Hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thét từng trang.
Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót mây năm màu chiêm ngưỡng
Dài mênh mông một dải tới Nam Quan
Bóng ấy đã in sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ của nhân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải.
Muôn chiến công một chiến công dồn lại
Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang
Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái
Ngọn cờ rung bao tính mệnh sẵn sàng
Người cất bước cả non sông một dải
Vươn mình theo dãy hoành sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng
Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang
Người ra Bắc oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn
Hịch ban xuống lời lời tâm huyết
Lệnh truyền quân ai dám bước chân chồn.
Gươm thiêng cựa vỏ giặc không mồ chôn
Voi thiêng chuyển vó nát lũy tan đồn
Ôi một khúc hoàn ca, hề gào mây thét gió
Mà ý tướng lòng quân, hề bền sắc tươi son
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
“Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon
Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn
Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào
Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao
Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội
Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói
Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao
Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào
Ðã về ngự trên ngã ba thời đại”
Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải
Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn
Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn
Lũ chúng ta trên ngã ba đường
Ghi ngày giỗ trận
Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG
Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương
Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”
Ðể một mai bông thắm cỏ xanh dờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt
Mừng đất trời gió bụi tan cơn
Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
Một trận Ðống Ða ngàn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai đá chẳng sờn.
Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu
Bàng bạc trường giang lạnh khói
Ðìu hiu điệp khúc ly sầu.
Ðã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch
Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Ðông Châu.
Ôi sông ngát dư linh trải bao đời có biết
Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu?
Phải chăng ngươi, phải chăng kìa dấu vết
Tinh anh rờ rỡ ngàn sau.
Nước trôi đây, nước trôi bờ cõi Việt
Âm u rợn tiếng ghê màu.
Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt
Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu.
Kinh Kha hề Kinh Kha
Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách
Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca.
Biên thùy trống giục
Nẻo Tần sương sa
Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà.
Buồn xưa giờ chưa tan
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới
Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên
Nhịp vó câu nẻo Hàm Dương tung bụi
Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên.
Tám phương trời khói lửa
Một mũi dao sang Tần
Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ?
Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân?
Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu
Mà thương cho cánh tay thần?
Ta chỉ thấy
Tơi bời tướng sĩ
Thây ngã hai bên
Một triều rối loạn
Ngai vàng xô nghiêng
Áo rách thân run hề, ghê hồn bạo chúa
Hùng khí át sao Ngâu hề, nộ khí xung thiên.
Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ
Hiệp sĩ Kinh Kha hề, người thác đã nên.
Ta há quan tâm gì việc thành hay bại
Thế gian ơi, kìa bãi bể nương dâu
Cung điện Hàm Dương ba tháng đỏ
Thành xây cõi dựng là đâu?
Nào ai khởi nghiệp đế?
Nào ai diệt chư hầu?
Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư
Dù lăng ngà hay cỏ khâu.
Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa
Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu
Một nét dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay trúng cũng là dư.
Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại
Ðã trùm lấn Yêu Ly hề, mờ át Chuyên Chư.
Ôi Kinh Kha, hào khí người còn sang sảng
Ðâu đây lòa chói giấc mơ
Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn?
Gương anh hùng vằng vặc sáng muôn thu.
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn om xòm cả bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Ngoảnh đi ngoảnh lại lại đến Tết
Ông đến độ này mới thật chết
Gạo tẻ đong chịu nếp thì không
Áo vợ rách tan chồng cũng hết
Cỗ bàn duy có ba ông Công
Xu kẽm thì không một vẩy hến
Thì ra lúc túng văn càng hay
Lại được một bài thơ khóc Tết.
Tản Đà
BÀI HỌA
Cậu ấm khóc đâu là khóc Tết
Phải đâu núi Tản sông Đà chết
Sông dù vặn được tuổi càng thêm
Núi có dời đi duyên chẳng hết
Kìa bánh đem lòng bóc giữa mâm
Lại Rồng phun thuốc dâng đầy hến
Thơ đang vời rượu bật lên cười
Vang Bính Thìn Xuân Nam Việt Tết.
Năm mươi lăm tuổi hãy mừng ta
Còn bốn mươi năm nữa đó mà
Đội đức hải sơn ngày tháng rộng
Gẫm mình râu tóc tuyết sương pha
Cung đàn ả nguyệt còn yêu trẻ
Chén thọ lăng xuân vẫn kính già
Lộc nước ơn vua ban đã khắp
Được riêng mạnh khỏe phúc nhà ta.
Dương Khuê
BÀI HỌA
Sáu mươi hai tuổi hãy mừng ta
Cũng trích tiên xưa tuổi ấy mà
Đời đã xong rồi mau tịch mịch
Sống chi nhiều nữa để phôi pha
Văn chương đến buổi văn nằm ụ
Tết nhất coi như Tết dối già
Tái diễn năm nay màn "tróc nguyệt"
Không chừng vai chính sẽ là ta.
Xuân Bính Thìn 1976
Năm nay tớ đã bẩy mươi tư
Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ
Lúc hứng uống thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo mấy câu thơ
Bạn già lớp trước nay còn mấy
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như
Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa
Thử xem trời mãi thế này ư.
Nguyễn Khuyến
BÀI HỌA
Di cư từ một chín năm tư
Đón Tết mừng xuân chỉ ậm ừ
Có đất ngòi đây là đất hứa
Gõ đầu trẻ cũng đứng đầu thơ
Ngã ra thì ngã thân Từ Hải
Chôn khó mà chôn mộng Tố Như
Nợ đã sông Tiền xuôi ngọn nước
Ai còn đeo đẳng khúc đuôi ư.
Đọc mấy vần thơ gửi tới nhau
Mà thương mà xót dạ thêm sầu
Ta buồn nhìn nắng soi hiên vắng
Mình giận nghe mưa rót mái lầu
Ngõ hẹp sầu dâng vương lối cỏ
Đời tàn bóng ngả xế nương dâu
Ba trăm năm nữa ai tri kỷ?
Hổ với người xưa, thẹn với sau.
Bàng Bá Lân
BÀI HỌA
Thơ đoạn trường kia liệu khất nhau
Vay không với hận, trả thêm rầu
Thơ vay bằng huyết tan vào sử
Ngọc trả thành mưa đọng dưới lầu
Trước đã trời xanh vay má phấn
Rồi xem biển lớn trả nương dâu
Mình vay mình hãy riêng mình biết
Để trả cho mình những kiếp sau.
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng một màu mây vạn bạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.
CẢM ĐỀ
Hoàng Hạc Lâu - Nguyễn Du
Đã bao giớ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở
Làm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau
Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê chín tới nghĩ mà đau!
Chẳng dùng chi được văn tài
Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ
Phút giây chết điếng hồn thơ
Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau
Chắc gì ba trăm năm sau
Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây
Nếu không cơm áo đọa đày
Như thân nào thịt xương nào bỗng dưng
Chết theo vào đến lưng chừng
Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi
Nửa chiều say ngất mê tơi
Khúc đâu lơ láo mảnh đời thì vương.
Ngày này xưa cổng này đây
Hoa đào má đỏ cùng lây ánh hồng
Đã ngưng một điểm thời không
Mở ra ngoài phía chiếc lồng thiên cơ
Đón vào sâu tận cõi bờ
Chưa ai vào được hay mơ được vào
Chợt nghe má đỏ hôm nào
Cười lên từ cổng hoa đào nhặt thưa
Cổng ơi mở cũng bằng thừa
Đừng tin kích thước gửi vào Đường thi
Chàng Thôi ngắm hão rồi đi
Một khung chết đứng mong gì ngàn sau.
Còn gì đây hết gì đây
Chiếu nhà vua gái thơ ngây biết gì
Chiếu gon ông hỏi làm chi
Dệt nên tôi cũng bán đi là thường
Hồ Tây còn nước còn gương
Vai tôi còn chiếu tuy ...giường thì không
Ông còn đất trải không ông
Mà toan mua chiếu mất công hỏi người
Sao ông không hỏi ông trời
Hỏi thân này trước hỏi đời hôm nay
Còn đem non nước làm rầy
Cả chiêm bao, cả chiếu này nữa ư?
Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von
Nhịp ba cung Bắc ai còn hát đây
Cánh chim lượng gió đong đầy
Khói Hoàng đô thoắt liền mây Đế thành
Rồng Lê, Phượng Nguyễn tung hoành
Chẳng e lưu xú, chẳng dành lưu phương
Ba hồi trống giục pháp trường
Máu tuông phách đựng phố phường còn mưa
Cơn buồn gió lọt mành thưa
Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba
Nào ai đáng mặt danh ca
Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.
Nước trong dòng đục thương ai
Chiều sương gió tiễn sô gai bốn bề
Yếm khăn đi cũng chẳng về
Nghiệp văn chương ấy nặng nề đến đâu
Lạ gì mưu lũ trọc đầu
Cung vua dìm tiếng thơ sầu Thanh Quan
Dễ gì khi qua đèo Ngang
Chim kêu lại để gan vàng sót sa
Mảnh tình riêng ta với ta
Phải đâu tâm sự một bà Huyện thôi
Nước còn chau mặt không trôi
Hồn thu thảo láng chuông hồi cổ kim.
Đo xem đất có dài chăng
Với tay xem có thât rằng trời cao
Ôi sau đây hận đây sao
Văn chương hồ thỉ hôm nào tung hê
Sầu không nở trắng hoa lê
Hận không chôn chặt bên lề cỏ xanh
Cán cân rơi mất thôi đành
Túi càn khôn thắt được danh bao giờ
Còn tên còn tiếng lửng lơ
Còn son để yếm còn thơ để đời
Sân đu cọc nhổ còn chơi
Ngã ra lại có đất trời ở trong.
Bè mây đã nát thu phong tứ
Trùng cửu thơ còn trao ngất ngư
Tháng cuối mùa trăng ngày hội hữu
Năm đầu gác bút động hoa hư
Thơ không thoái vị, trà say khướt
Người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ
Nam Bắc sương im đầy bóng nhạn
May ra bệnh cũng xuống dần ư.
- Bài Ca Sông Dịch Vũ Hoàng Chương Thơ
- Sao Lại Thế Được Vũ Hoàng Chương Bút ký
- Đọc lại Nguyễn Du Vũ Hoàng Chương Thơ
- Trước một ngày trao Vũ Hoàng Chương Thơ
- Hồ Xuân Hương Vũ Hoàng Chương Thơ
- Bà Huyện Thanh Quan Vũ Hoàng Chương Thơ
- Cao Bá Quát Vũ Hoàng Chương Thơ
- Thị Lộ Vũ Hoàng Chương Thơ
- Đọc Thôi Hộ Vũ Hoàng Chương Thơ
- Trang Thơ Vũ Hoàng Chương Vũ Hoàng Chương Thơ
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |