2008 | VĂN HỌC
Trang Thơ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Bài Ca Bình Bắc

Bài Ca Sông Dịch

Tết Bính Thìn (1976)

Thơ Khóc Tết (Hoa Thơ Tản Đà)

Thơ Tự Thọ (Họa Thơ Dương Khuê)

Thơ Cảm Xuân (Họa Thơ Nguyễn Khuyến)

Ba Trăm Năm Sau (Họa Thơ Bàng Bá Lân)

Hoàng Hạc Lâu (Dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)

Đọc Lại Nguyễn Du

Đọc Thôi Hộ

Thị Lộ

Cao Bá Quát

Bà Huyện Thanh Quan

Hồ Xuân Hương

Trước Một Ngày Trao


:: Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

Thơ Vũ Hoàng Chương (sau tháng tư 1975)
(Thế kỷ 21 số 213&214 Jan&Feb 2007)

Kể từ đây đã sáu mươi ngàn lần                                       

Mặt trời mọc ở phương Ðông ngùn ngụt lửa                          

Mặt trời lặn ở phương Ðoài máu chứa chan.


Kể từ đây cũng đã sáu mươi ngàn lần

Trăng tỏ bóng nơi rừng thiêng đất Bắc

Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam.


Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn

Hãy dừng lại thời gian 

Trả lời ta - có phải

Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải

Dưới vầng dương thiêu đốt quan san.

Sóng hưng phế xô nghiêng từng triều đại

Mà chí lớn dọc ngang 

Mà mộng lớn huy hoàng

Vẫn nghìn thu còn mãi

Vẫn nghìn thu người áo vải đất Quy Nhơn.


Ôi người xưa Bắc Bình Vương

Ðống Ða một trận năm đường giáp công

Ðạn vèo năm cửa Thăng Long

Trắng gò xương chất đỏ sông máu màng

Giờ đây lại đã xuân sang

Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ

Ai kia lòng có chợt mang mang

Ðầy vơi sầu xứ


Hãy cùng ta 

Ngẩng đầu lên

Hướng về đây tâm sự

Nghe từng trang lịch sử thét từng trang.


Một phút oai thần dậy sấm

Tan vía cường bang

Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng

Cao chót vót mây năm màu chiêm ngưỡng

Dài mênh mông một dải tới Nam Quan


Bóng ấy đã in sâu vào tâm tưởng

Khắc sâu vào trí nhớ của nhân gian

Một bành voi che lấp mấy ngai vàng


Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải. 

Muôn chiến công một chiến công dồn lại

Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang

Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái

Ngọn cờ rung bao tính mệnh sẵn sàng

Người cất bước cả non sông một dải

Vươn mình theo dãy hoành sơn mê mải

Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng

Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại


Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang

Người ra Bắc oai thanh mờ nhật nguyệt

Khí thế kia làm rung động càn khôn

Hịch ban xuống lời lời tâm huyết

Lệnh truyền quân ai dám bước chân chồn.

Gươm thiêng cựa vỏ giặc không mồ chôn

Voi thiêng chuyển vó nát lũy tan đồn 

Ôi một khúc hoàn ca, hề gào mây thét gió

Mà ý tướng lòng quân, hề bền sắc tươi son


Hưởng ứng sông hồ giục núi non

“Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn

Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa

Tan tác xương thù, ngựa đá bon


Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn

Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân

Vinh quang hẹn với phong trần

Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào


Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới

Sầu xuân vời vợi

Xuân tứ nao nao

Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào

Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái

Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao

Chí khí cũ gầm trong da thịt mới

Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao

Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội

Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao

Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói

Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao

Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào

Ðã về ngự trên ngã ba thời đại”

Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải


Thì nghiệp lớn vẻ vang

Thì mộng lớn huy hoàng

Vẫn ngàn thu còn mãi

Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn


Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn

Lũ chúng ta trên ngã ba đường

Ghi ngày giỗ trận

Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG

Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn

Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương

Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”


Ðể một mai bông thắm cỏ xanh dờn

Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt

Mừng đất trời gió bụi tan cơn


Chúng ta sẽ không hổ với người xưa

Một trận Ðống Ða ngàn thu oanh liệt

Vì ta sau trước lòng kiên quyết

Vàng chẳng hề phai đá chẳng sờn.



:: Bài Ca Sông Dịch


Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu

Bàng bạc trường giang lạnh khói

Ðìu hiu điệp khúc ly sầu.

Ðã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch

Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Ðông Châu.

Ôi sông ngát dư linh trải bao đời có biết

Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu?

Phải chăng ngươi, phải chăng kìa dấu vết

Tinh anh rờ rỡ ngàn sau.

Nước trôi đây, nước trôi bờ cõi Việt

Âm u rợn tiếng ghê màu.

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu.


Kinh Kha hề Kinh Kha

Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách

Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca.

Biên thùy trống giục

Nẻo Tần sương sa

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà.

Buồn xưa giờ chưa tan

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn

Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới

Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên

Nhịp vó câu nẻo Hàm Dương tung bụi

Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên.


Tám phương trời khói lửa

Một mũi dao sang Tần

Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ?

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân?

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần?

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ

Thây ngã hai bên

Một triều rối loạn

Ngai vàng xô nghiêng

Áo rách thân run hề, ghê hồn bạo chúa

Hùng khí át sao Ngâu hề, nộ khí xung thiên.

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ

Hiệp sĩ Kinh Kha hề, người thác đã nên.


Ta há quan tâm gì việc thành hay bại

Thế gian ơi, kìa bãi bể nương dâu

Cung điện Hàm Dương ba tháng đỏ

Thành xây cõi dựng là đâu?

Nào ai khởi nghiệp đế?

Nào ai diệt chư hầu?

Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư

Dù lăng ngà hay cỏ khâu.

Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa

Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu

Một nét dao bay ngàn thuở đẹp

Dù sai hay trúng cũng là dư.

Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại

Ðã trùm lấn Yêu Ly hề, mờ át Chuyên Chư.


Ôi Kinh Kha, hào khí người còn sang sảng

Ðâu đây lòa chói giấc mơ

Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn?

Gương anh hùng vằng vặc sáng muôn thu.



:: Tết Bính Thìn (1976)


Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành

Gà lợn om xòm cả bức tranh

Rằng vách có tai, thơ có họa

Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh

Mắt gà huynh đệ bao lần quáng

Lòng lợn âm dương một tấc thành

Cục tác nữa chi ngừng ủn ỉn

Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.



:: Thơ Khóc Tết (Họa Thơ Tản Đà)


Ngoảnh đi ngoảnh lại lại đến Tết

Ông đến độ này mới thật chết

Gạo tẻ đong chịu nếp thì không

Áo vợ rách tan chồng cũng hết

Cỗ bàn duy có ba ông Công

Xu kẽm thì không một vẩy hến

Thì ra lúc túng văn càng hay

Lại được một bài thơ khóc Tết.

Tản Đà

BÀI HỌA


Cậu ấm khóc đâu là khóc Tết

Phải đâu núi Tản sông Đà chết

Sông dù vặn được tuổi càng thêm

Núi có dời đi duyên chẳng hết

Kìa bánh đem lòng bóc giữa mâm

Lại Rồng phun thuốc dâng đầy hến

Thơ đang vời rượu bật lên cười

Vang Bính Thìn Xuân Nam Việt Tết.



:: Thơ Tự Thọ (Họa Thơ Dương Khuê)


Năm mươi lăm tuổi hãy mừng ta

Còn bốn mươi năm nữa đó mà

Đội đức hải sơn ngày tháng rộng

Gẫm mình râu tóc tuyết sương pha

Cung đàn ả nguyệt còn yêu trẻ

Chén thọ lăng xuân vẫn kính già

Lộc nước ơn vua ban đã khắp

Được riêng mạnh khỏe phúc nhà ta.

Dương Khuê


BÀI HỌA


Sáu mươi hai tuổi hãy mừng ta

Cũng trích tiên xưa tuổi ấy mà

Đời đã xong rồi mau tịch mịch

Sống chi nhiều nữa để phôi pha

Văn chương đến buổi văn nằm ụ

Tết nhất coi như Tết dối già

Tái diễn năm nay màn "tróc nguyệt"

Không chừng vai chính sẽ là ta.

Xuân Bính Thìn 1976



:: Thơ Cảm Xuân (Họa Thơ Nguyễn Khuyến)


Năm nay tớ đã bẩy mươi tư

Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ

Lúc hứng uống thêm ba chén rượu

Khi buồn ngâm láo mấy câu thơ

Bạn già lớp trước nay còn mấy

Chuyện cũ mười phần chín chẳng như

Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa

Thử xem trời mãi thế này ư.

Nguyễn Khuyến


BÀI HỌA


Di cư từ một chín năm tư

Đón Tết mừng xuân chỉ ậm ừ

Có đất ngòi đây là đất hứa

Gõ đầu trẻ cũng đứng đầu thơ

Ngã ra thì ngã thân Từ Hải

Chôn khó mà chôn mộng Tố Như

Nợ đã sông Tiền xuôi ngọn nước

Ai còn đeo đẳng khúc đuôi ư.



:: Ba Trăm Năm Sau (Họa Thơ Bàng Bá Lân)


Chắc gì ba trăm năm sau
Dễ ai vào nổi cơn sầu nằm đây

Đọc mấy vần thơ gửi tới nhau

Mà thương mà xót dạ thêm sầu

Ta buồn nhìn nắng soi hiên vắng

Mình giận nghe mưa rót mái lầu

Ngõ hẹp sầu dâng vương lối cỏ

Đời tàn bóng ngả xế nương dâu

Ba trăm năm nữa ai tri kỷ?

Hổ với người xưa, thẹn với sau.

Bàng Bá Lân


BÀI HỌA


Thơ đoạn trường kia liệu khất nhau

Vay không với hận, trả thêm rầu

Thơ vay bằng huyết tan vào sử

Ngọc trả thành mưa đọng dưới lầu

Trước đã trời xanh vay má phấn

Rồi xem biển lớn trả nương dâu

Mình vay mình hãy riêng mình biết

Để trả cho mình những kiếp sau.



:: Hoàng Hạc Lâu (Dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)


Xưa hạc vàng bay vút bóng người

Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi

Vàng tung cánh hạc đi đi mất

Trắng một màu mây vạn bạn đời

Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu

Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi

Gần xa chiều xuống đâu quê quán

Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.


CẢM ĐỀ

Hoàng Hạc Lâu - Nguyễn Du


Đã bao giớ có hạc vàng đâu

Mà có người tiên để có lầu

Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở

Làm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau

Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch

Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu

Trăng gió hão huyền như khói sóng

Nồi kê chín tới nghĩ mà đau!



:: Đọc lại Nguyễn Du


Văn tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên

Chẳng dùng chi được văn tài

Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ

Phút giây chết điếng hồn thơ

Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau

Chắc gì ba trăm năm sau

Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây

Nếu không cơm áo đọa đày

Như thân nào thịt xương nào bỗng dưng

Chết theo vào đến lưng chừng

Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi

Nửa chiều say ngất mê tơi

Khúc đâu lơ láo mảnh đời thì vương.



:: Đọc Thôi Hộ


Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Ngày này xưa cổng này đây

Hoa đào má đỏ cùng lây ánh hồng

Đã ngưng một điểm thời không

Mở ra ngoài phía chiếc lồng thiên cơ

Đón vào sâu tận cõi bờ

Chưa ai vào được hay mơ được vào

Chợt nghe má đỏ hôm nào

Cười lên từ cổng hoa đào nhặt thưa

Cổng ơi mở cũng bằng thừa

Đừng tin kích thước gửi vào Đường thi

Chàng Thôi ngắm hão rồi đi

Một khung chết đứng mong gì ngàn sau.



:: Thị Lộ


Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn

Còn gì đây hết gì đây

Chiếu nhà vua gái thơ ngây biết gì

Chiếu gon ông hỏi làm chi

Dệt nên tôi cũng bán đi là thường

Hồ Tây còn nước còn gương

Vai tôi còn chiếu tuy ...giường thì không

Ông còn đất trải không ông

Mà toan mua chiếu mất công hỏi người

Sao ông không hỏi ông trời

Hỏi thân này trước hỏi đời hôm nay

Còn đem non nước làm rầy

Cả chiêm bao, cả chiếu này nữa ư?



:: Cao Bá Quát


Minh nhật dục từ Nam phố đạo
Hà nhân cánh xướng Bắc cung thanh

Đường Thanh Nghệ Tĩnh chon von

Nhịp ba cung Bắc ai còn hát đây

Cánh chim lượng gió đong đầy

Khói Hoàng đô thoắt liền mây Đế thành

Rồng Lê, Phượng Nguyễn tung hoành

Chẳng e lưu xú, chẳng dành lưu phương

Ba hồi trống giục pháp trường

Máu tuông phách đựng phố phường còn mưa

Cơn buồn gió lọt mành thưa

Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba

Nào ai đáng mặt danh ca

Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.



:: Bà Huyện Thanh Quan


Người xưa cảnh cũ giờ đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu

Nước trong dòng đục thương ai

Chiều sương gió tiễn sô gai bốn bề

Yếm khăn đi cũng chẳng về

Nghiệp văn chương ấy nặng nề đến đâu

Lạ gì mưu lũ trọc đầu

Cung vua dìm tiếng thơ sầu Thanh Quan

Dễ gì khi qua đèo Ngang

Chim kêu lại để gan vàng sót sa

Mảnh tình riêng ta với ta

Phải đâu tâm sự một bà Huyện thôi

Nước còn chau mặt không trôi

Hồn thu thảo láng chuông hồi cổ kim.



:: Hồ Xuân Hương


Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài

Đo xem đất có dài chăng

Với tay xem có thât rằng trời cao

Ôi sau đây hận đây sao

Văn chương hồ thỉ hôm nào tung hê

Sầu không nở trắng hoa lê

Hận không chôn chặt bên lề cỏ xanh

Cán cân rơi mất thôi đành

Túi càn khôn thắt được danh bao giờ

Còn tên còn tiếng lửng lơ

Còn son để yếm còn thơ để đời

Sân đu cọc nhổ còn chơi

Ngã ra lại có đất trời ở trong.



:: Trước một ngày trao


Bè mây đã nát thu phong tứ

Trùng cửu thơ còn trao ngất ngư

Tháng cuối mùa trăng ngày hội hữu

Năm đầu gác bút động hoa hư

Thơ không thoái vị, trà say khướt

Người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ

Nam Bắc sương im đầy bóng nhạn

May ra bệnh cũng xuống dần ư.