|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
GS Vũ Hoàng Chương,
trường Gia Long, Sài Gòn 1958.
Sau khi những người Cộng sản lấy được miền Nam tháng 4 năm 1975, hầu hết văn nghệ sĩ của miền Nam đều bị bắt giam. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị họ bắt ngày 13 tháng 4 năm 1976, đưa vào giam ở khám Chí hoà. Khi ông bị bệnh gần nguy kịch họ mới đưa về để chết ở nhà. Ít hôm sau ông qua đời, ngày 7 tháng 9 năm 1976 (tức ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn) tại Sàigòn.
Một số thơ ông làm sau tháng 4-1975 như bài “Tranh gà lợn,” hoặc bài thơ từ nhà giam gửi về thăm vợ con, đã được phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, một số thi phẩm khác, như 12 bài thơ gồm 6 bài về một số nhân vật lịch sử và văn học Việt Nam (Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát …) và 6 bài về một số nhân vật lịch sử và văn học Trung Hoa (Hán Vũ đế, Thôi Hộ, Đỗ Mục, Đỗ Thu nương, Trần Đào, Bành Ngọc Lân …) chưa đuợc nhiều người biết tới. Chúng tôi xin giới thiệu một trong những bài thơ ấy ở phía sau. Đây là bài thơ Vũ Hoàng Chương viết về Bành Ngọc Lân, một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh. Bài này cũng là một trong những bài thơ hay nhưng ý tưởng rất kín đáo của thi hào họ Vũ. Viết sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản, ngụ ý thời thế của ông rất rõ, nhưng người đọc cần lưu tâm mới nhận thấy.
ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: BÀNH NGỌC LÂN
(Thập vạn đại quân tề cổ chưởng
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi)
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ
Từ bao giờ đến bao giờ
Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành
Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân
Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh.
Để có thể trình bày rõ ý nghĩa bài thơ, trước hết xin được nói qua ít hàng về Bành Ngọc Lân. Sau đó, xin giải thích mấy câu thơ chữ Hán của họ Bành được trích dẫn phía trên, cùng giải thích một số danh từ riêng trong bài thơ như Tiểu Cô sơn, Bành Lang độ.
Bành Ngọc Lân (彭玉麟 -- Peng Yulin) là một danh tướng Trung Hoa cuối đời Thanh, sinh năm 1816, mất năm 1890. Khi cuộc loạn Thái Bình Thiên Quốc (với những lãnh tụ Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh …) bùng nổ, chiếm gần nửa nước Trung Hoa, gồm cả Nam kinh để lập kinh đô, rạch đôi giang sơn với nhà Thanh trong 11 năm từ 1853 tới 1864, triều đình nhà Thanh đã rung rinh, đất nước cực kỳ xáo trộn. Góp công đáng kể nhất trong việc dẹp yên được Thái Bình Thiên Quốc là một nhân sĩ tỉnh Hồ nam là Tăng Quốc Phiên (Zeng Guofan) cùng một đạo quân tình nguyện, đa số gốc Hồ nam, lấy tên là “Tương quân” (“quân đội vùng sông Tương,” một con sông chảy qua tỉnh Hồ nam). Bành Ngọc Lân là một tướng lãnh của đạo quân tình nguyện ấy, chỉ huy thủy binh, có công rất lớn trong việc dẹp Thái Bình Thiên Quốc. Sau đó ông được cử làm Thủy sư Đô đốc, dần dần thăng tới Binh bộ Thượng thư của nhà Thanh. Sau khi người Pháp lấy miền Bắc Việt Nam và đem quân tới biên giới Hoa Việt năm 1883-84, Bành Ngọc Lân đã tới biên giới trong chức Binh bộ Thượng thư để quan sát cùng tổ chức việc phòng thủ. Ông về hưu và mất ít năm sau đó.
Tiểu Cô sơn:
Có nhiều Tiểu Cô sơn (小孤山 -- Xiaogushan hay Hsiao ku shan) trong lãnh thổ Trung hoa. Nếu tra cứu các tài liệu địa dư, ta sẽ thấy ít nhất 5 ngọn núi có tên như thế tại Nội Mông cổ, Cam túc (Gansu), Cát lâm (Jilin), Liêu ninh (Liaoning), và An huy (Anhui). Ngọn Tiểu Cô sơn do Bành Ngọc Lân chiếm được và nhắc tới trong bài thơ này nằm trong tỉnh An huy. Núi này ở gần tỉnh lỵ An khánh (Anqing), sát bên bờ Trường giang (Dương tử giang). Quân Thái Bình Thiên Quốc đóng trên núi này đã bắn xuống dữ dội, ngăn chặn đường tiến binh của đạo thủy quân do Bành Ngọc Lân chỉ huy trên đường tới bao vây Nam kinh. Muốn các chiến thuyền của mình có thể đi qua một cách an toàn, Bành Ngọc Lân bắt buộc phải đánh chiếm ngọn núi. Theo các sử liệu Trung hoa, việc này xảy ra vào tháng 2 năm 1853. Sau khi chiếm được núi, Bành Ngọc Lân cao hứng làm ra bài thơ sau:
書生笑率戰船来,
江上旌旗耀日開,
十萬貔貅齊奏凱
彭郎奪得小姑回
Thư sinh tiếu suất chiến thuyền lai
Giang thượng tinh kỳ diệu nhật khai
Thập vạn tì hưu tề tấu khải
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi.
Nghĩa:
Thư sinh vừa cười vừa đốc thúc chiến thuyền tiến lại
Trên sông, cờ xí, mở ra dưới ánh mặt trời rực rỡ
(hay: cờ xí mở ra, rực rỡ như ánh mặt trời)
Mười vạn quân dũng mãnh cùng hát khúc ca chiến thắng:
“Bành lang đã đoạt được Tiểu Cô trở về.”
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã đưa hai câu cuối của bài thơ này lên phía trước bài thơ của ông nhưng đổi đi mấy chữ trong câu thứ ba. Ông đã đổi “thập vạn tì hưu” (mười vạn quân dũng mãnh, do nghĩa gốc của “tì hưu” là con gấu trắng, một giống thú rất mạnh) ra “thập vạn đại quân” (đạo quân đông tới mười vạn). Ông cũng đổi “tề tấu khải” (cùng hát khúc ca chiến thắng) ra “tề cổ chưởng” (cùng vỗ tay), có lẽ để gần với hoàn cảnh của Việt Nam năm 1975 hơn.
Từ “Tiểu Cô sơn 小孤山” tới “Tiểu Cô 小姑”: Mối chung tình của Bành Ngọc Lân:
Một điểm đáng lưu ý là ngọn núi được nhắc tới ở trên có tên小孤山 (núi nhỏ cô đơn) nhưng trong bài thơ, Bành Ngọc Lân đã cố tình viết sai, dùng một chữ cũng có âm “cô” nhưng nghĩa khác, là小姑 (người cô bé nhỏ). Thừa tiếp ý ấy, trong câu thơ thứ 3, Vũ Hoàng Chương viết, “Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây.” Muốn hiểu rõ điểm tế nhị này, ta cần biết qua về cuộc đời của Bành Ngọc Lân.
Khi còn ít tuổi, Bành Ngọc Lân yêu một thiếu nữ, con nuôi của bà ngoại ông. Đúng ra ông phải gọi bằng “dì” vì là em nuôi của mẹ. Nhưng hai người trạc tuổi, cùng lớn lên và chơi đùa với nhau, tình yêu đến một cách tự nhiên. Gia đình không chấp thuận vì trong xã hội cổ, một hôn nhân như thế có thể bị coi là “loạn luân.” Bành Ngọc Lân phải đưa đi học xa trong khi cô gái, có biệt danh Mai cô, được gả cho người khác. Một năm sau Mai cô qua đời, lý do chính là sinh nở khó, nhưng Bành Ngọc Lân suốt đời không quên. Ông tới mộ Mai cô thương khóc, nguyện sẽ vẽ một vạn bức tranh hoa mai để trọn đời nhớ tới cô (giữ lời nguyện, ông vẽ được trên một vạn bức tranh hoa mai, trở thành một trong những họa sĩ Trung hoa chuyên về hoa mai). Khi chiếm được Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Ngọc Lân đã 37 tuổi và Mai cô đã mất từ lâu. Sau một cuộc ác chiến rất gần cái chết nhưng đắc thắng, ông tưởng như từ cõi chết trở lại. Nhân lấy được Tiểu Cô sơn và trước kia vẫn gọi Mai cô là “Tiểu Cô” (người cô bé nhỏ), ông cao hứng, tưởng như đã đem được nàng từ cõi chết về theo:
Bành lang đoạt đắc Tiểu Cô hồi
(Bành lang đoạt được Tiểu Cô [từ cõi chết] trở về).
Mối thiện cảm Vũ Hoàng Chương dành cho Bành Ngọc Lân:
Cùng có một tình đầu tan vỡ và cùng suốt đời không quên mối tình ấy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã dành rất nhiều thiện cảm cho Bành Ngọc Lân. Ý tưởng nguyên thủy trong các câu:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
nhưng:
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
biểu lộ một thông cảm “đồng cảnh” giữa thi nhân họ Vũ với vị tướng quân kiêm họa sĩ họ Bành: không thể làm sống lại người yêu cũ, không thể đổi được định mệnh. Dù có nhân chuyện cùng một âm “cô” để cố tình hiểu “ngọn núi cô đơn” ra “người cô bé nhỏ” thì sau khi đoạt về, “Tiểu Cô” cũng không còn sự sống. Nhưng mối thông cảm Vũ Hoàng Chương -- Bành Ngọc Lân đã dừng ở đó. Toàn bài, nhất là 6 câu cuối, là những phán đoán rất bình tĩnh của tác giả về cuộc thống nhất đất nước năm 1975.
Cuộc thống nhất Việt Nam năm 1975 qua ngòi bút của Vũ Hoàng Chương:
Sống tại miền Nam cho tới tháng 9 năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương hẳn đã chứng kiến tận mắt những kinh hoàng của dân chúng trước cuộc tiến công của Hà nội trong các tháng 3 và 4-1975, được nghe tới nhàm chán những lời tự tôn đầy huênh hoang của kẻ chiến thắng, và nhất là hiểu rõ nỗi chua xót thấm thía của người dân miền Nam qua những câu “ca dao mới” như:
Nam kỳ khởi nghĩa tiêu Công lý
Đồng khởi vùng lên mất Tự do.
Bản thân ông, một người cầm bút, càng hiểu rõ thực trạng xã hội mới:
Rằng vách có tai, thơ có họa
và đã từng bị giam giữ trong cảnh ngộ:
Nửa manh chiếu lỉa hồn ngây ngất
Hai chén cơm rau xác mỏi mòn.
Sống tại Sàigòn, chắc chắn ông cũng từng nghe những câu nói rất được phổ biến trong dân chúng, “Đến cái cột đèn, nếu có chân, nó cũng muốn đi…”
Qua mấy câu đầu của bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” Vũ Hoàng Chương phác cho ta thấy một cảnh tượng tương phản: trong khi những người cầm đầu chế độ và tay chân của họ hớn hở, ồn ào … tự ca tụng công ơn “giải phóng miền Nam,” thì những ngưòi được “giải phóng” không hưởng ứng, biểu lộ một thái độ dửng dưng, lãnh đạm:
Bành lang đoạt Tiểu Cô về
Hùng binh mười vạn nhất tề vỗ tay
Riêng Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.
Người dân miền Nam, vốn thực tế, không bị chi phối bởi những thơ văn tuyên truyền đầy tính cách phóng đại:
Từ bao giờ đến bao giờ
Chẳng xiêu lòng núi vì thơ họ Bành.
Vũ Hoàng Chương cũng ghi nhận thái độ khinh miệt, bất cần, không coi trọng kẻ chiến thắng, của đa số dân chúng miền Nam:
Kể chi lúc ấy đời Thanh
Sá chi người ấy là danh tướng nào
Tiểu Cô sơn chỉ nhìn cao
Nghe Bành Lang độ thấm vào lòng chân.
Trong cuộc tấn công giành Tiểu Cô sơn năm 1853, Bành Lang độ (bến Bành Lang) là nơi Bành Ngọc Lân cho thủy quân đổ bộ để đánh lên núi.
Ý tưởng then chốt của Vũ Hoàng Chương nằm trong hai câu cuối. “Non” và “nước” vốn có những liên hệ tình cảm mật thiết và thiêng liêng. Muốn đưa “non” về với “nước,” muốn non sông thống nhất, không phải chuyện quá khó, nhưng cần có những thứ khác hơn là sức mạnh quân sự:
Non xưa bến cũ nhập thần
Đoạt non về bến đâu cần hùng binh
vì như đã nói trên, nếu chỉ biết dùng sức mạnh để chiếm đoạt, sẽ được một cơ thể không có sự sống:
… Cô Bé vẫn ngồi ngây
Xanh xanh ngàn dặm tóc mây hững hờ.
Tóm lại, “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân” không phải là một bài thơ phù phiếm, chỉ để bàn về mối tình đầu của một viên tướng Trung hoa cuối đời Thanh. Mượn chuyện đời xưa để nói chuyện đương thời, Vũ Hoàng Chương đã đưa ra một nhận xét có tính cách phán đoán về một sự kiện lịch sử xảy ra trong đời ông: việc thống nhất đất nước bằng cách xua quân chiếm miền Nam do những người cầm quyền ở Hà nội thực hiện năm 1975. Sống ở trong nước giữa giai đoạn ấy, ông không thể công khai nói một cách trực tiếp, nên đã để lại một bài thơ ngụ ý vô cùng hàm súc. Vũ Hoàng Chương rất xứng với danh hiệu một nhà thơ có lương tâm, phát biểu ý kiến một cách thành thật về những biến cố trong thời đại của mình, dù lời phát biểu ấy không hợp ý kẻ cầm quyền. Tuy chỉ dùng những lời thật hiền hoà, thái độ của ông không khác thái độ của Phùng Quán khi viết những câu sau đây:
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ cầm dao viết văn lên đá.
- Sau đúng 60 năm, đọc lại bài thơ trừ tịch của Đặng Đức Siêu và Đông Hồ Trần Từ Mai Khảo luận
- Thử Tìm Hiểu Ý Tưởng Vũ Hoàng Chương Trong Bài "Đọc Lại Người Xưa: Bành Ngọc Lân Trần Từ Mai Nhận định
- Thử Tìm Hiểu Ý Tưởng Vũ Hoàng Chương Trong Bài "Đọc Lại Người Xưa: Trần Đào" Trần Từ Mai Nhận định
- Một bài thơ xuân mang nhiều ý nghĩa của thi sĩ Đông Hồ Trần Từ Mai Nhận định
- Nguyễn Trãi đã sáng tác "Loạn Hậu Đáo Côn Sơn Cảm Tác" vào thời điểm nào? Trần Từ Mai Thơ
- Giới thiệu Bài Thơ "Trừ Tịch" của Đặng Đức Siêu Trần Từ Mai Giới thiệu
- Khai Xuân Thạch Vấn Trần Từ Mai Tiểu luận
- Trở lại bài thơ Khai Xuân Thạch vấn Trần Từ Mai Tiểu luận
• Nhân chuyện câu “Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ” được gán cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương (Trần Huy Bích)
• “Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ” (Nguyễn Văn Tuấn)
• Bài Thơ Tết Cuối Đời Của Vũ Hoàng Chương (Đàm Trung Pháp)
• Mười cái chết oan khiên của Văn Nghệ sĩ miền Nam (Phạm-Văn Duyệt)
• Họp mặt văn nghệ tại nhà Vũ Hoàng Chương (Mai Thảo)
• Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương (Mai Thảo)
• Thử Tìm Hiểu Ý Tưởng Vũ Hoàng Chương Trong Bài "Đọc Lại Người Xưa: Bành Ngọc Lân (Trần Từ Mai)
• Thử Tìm Hiểu Ý Tưởng Vũ Hoàng Chương Trong Bài "Đọc Lại Người Xưa: Trần Đào" (Trần Từ Mai)
• Vũ Hoàng Chương (1915-1976) South Vietnam's Fearless Poet Laureate (Đ.T.Pháp&V.Linh)
• Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến)
• Vũ Hoàng Chương (Võ Phiến)
• Những Nhân Vật Nữ Trong Thơ Vũ Hoàng Chương (Viên Linh)
• Khai Xuân Thạch Vấn (Trần Từ Mai)
• Trở lại bài thơ Khai Xuân Thạch vấn (Trần Từ Mai)
VHC, Tiếng thở dài của phương đông trầm mặc
(Tạ Tỵ, Talawas)
• Bài Ca Sông Dịch (Vũ Hoàng Chương)
• Sao Lại Thế Được (Vũ Hoàng Chương)
• Đọc lại Nguyễn Du (Vũ Hoàng Chương)
• Trước một ngày trao (Vũ Hoàng Chương)
• Hồ Xuân Hương (Vũ Hoàng Chương)
Ta đã làm chi đời ta (Bút ký, Talawas)
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |