|
Mai Trung Tĩnh(..1937 - 20.12.2002) | Việt Dzũng(8.9.1958 - 20.12.2013) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Trong những trang trước quí độc giả đã đọc những phát biểu của hơn 100 nhà văn miền Nam tham dự cuộc phỏng vấn do ông Nguiễn Ngu Í thực hiện. Sau đây là phần suy nghĩ của người đi phỏng vấn và lý do vì sao ông viết: "chút tình phỏng vấn từ nay xin chừa..."
Nhà văn Nguiễn Ngu Í
(1921 - 1979)
Nhưng vì đã mang cái "nghiệp" nên một lần nữa, lại chẳng thể chừa... việc quấy rầy một trăm nhà văn với bức thư phỏng vấn văn nghệ thứ nhì (cuộc phỏng vấn thứ nhất về truyện ngắn Việt và ngoại quốc hay nhất, bắt đầu từ 15-ll-1958), sau rút gọn trong bốn câu hỏi:
I- Sáng tác để làm gì? Để cho mình hay cho thiên hạ? Để cho bây giờ hay để cho mai sau?
II- Sáng tác theo một đường lối nhất định nào hay là tùy hứng?
III- Những gì đã xảy ra trong tâm trí và trên trang giấy của tác gia từ khi tác phẩm bắt đầu thai nghén cho nó đến lúc thành hình?
IV- Những kinh nghiệm sống và sáng tác thích nhất?
Trước khi trình bày kết quả cùng những nhận xét, chúng tôi xin nêu vài điều thắc mắc hoặc chỉ trích, do bạn đọc gửi đến hay do các bạn nhà văn gợi ra trong khi trả lời.
Trong số bốn câu hỏi trên, có câu thứ hai: Sáng tác theo một đường lối nhất định hay là tùy hứng đã gây thắc mắc vì hai thành ngữ: đường lối nhất đinh và tùy hứng.
Người trả lời đầu tiên, anh Bình-Nguyên-Lộc (Bách Khoa số l01), cho chúng tôi đặt ra hai ý niệm đó, tưởng đâu là tương phản, nhưng thật ra không liên hệ gì đến nhau, tỉ như "con chó với khúc gỗ": anh cho "đường lối nhất định là ý chí của con người, còn hứng chỉ là một phương pháp làm việc"; và anh đoán chắc chúng tôi muốn hỏi: "Sáng tác theo một đường lối nhất định, hay gặp ý gì viết nấy, và kết luận theo sự thật, theo sở thích, theo lẽ hai, chớ không theo đường lối ấy".
Chúng tôi khi nêu câu hỏi thứ hai đã hiểu như thế này: Sáng tác theo đường lối nhất định là có chủ trương, chủ tâm, chủ đích, có lập trường vững chắc khi viết, còn sáng tác tùy hứng là gặp bất cứ đề tài nào vì mình thích thì viết. Tỉ như Nhất-Linh, một thời, đã sáng tác để "làm gì cho" dân quê đang sống khổ sở, tối tăm; còn Phạm-Cao-Củng, một dạo, viết truyện trinh thám để thỏa một khiếu riêng, viết truyện võ hiệp vì không bằng lòng Lý-Ngọc-Hưng (người Trung-Hoa) dịch truyện võ hiệp Tàu với lối văn lủng củng mà được hoan nghinh, lại viết truyện nhi đồng hầu góp phần giải trí và giáo dục con em.
Thế thì tùy hứng không có nghĩa là phương pháp làm việc, mà là một lề lối sáng tác. Có thể tạm ví cách con ong tìm bông hút nhụy và lối con bướm vờn hoa để hình dung hai thành ngữ đó.
Sau anh Bình-Nguyên-Lộc, năm nhà văn khác và một bạn đọc cũng thắc mắc về nghĩa câu hỏi này. Mặc dù số các bạn trên đây không có là bao, nhưng chúng tôi cũng xin nhận mình đã chẳng đặt câu hỏi rõ ràng hơn, đó là một kinh nghiệm cho chúng tôi về sau vậy.
Và mới đây, ông Nguyễn-Văn-Trung, trong bài diễn văn "Văn chương là một vết tích hay nhà văn và chữ viết (nói ngày 19-11-61 tại truờng Quốc gia Âm nhạc, Sài-Gòn và đăng ở Bách Khoa số 118), có nhắc đến cuộc phỏng vấn này và tỏ ý kiến phải chi chúng tôi đặt câu hỏi "Sáng tác để làm gì?" lại là "Tại sao viết?" thì mới "đi sâu vào ý nghĩa nội tại của sáng tác", vì như thế, ta sẽ biết nguyên nhân thay vì mục đích. Điều nhận xét trên đây của ông Nguyễn-Văn-Trung thật chí lí và tế nhị, nhưng ý định của chúng tôi lại khác: chúng tôi muốn tìm hiểu mục đích của các nhà văn khi viết, vì mục đích sẽ soi sáng nguyên nhân; vả lại công trinh sáng tác chỉ có giá trị trọn vẹn khi nó đã gây được ảnh hưởng gì đối với người xem, kẻ đọc, chớ không phải vì cái cớ đã thúc đẩy người nghệ sĩ bắt tay vào việc.
Đến anh bạn Vũ-Hạnh, khi nói chuyện về "Hoàn cảnh sáng tác và điều kiện sống hiện thời các văn nghệ sĩ" (trình bày tại Câu lạc bộ Văn Hóa, Sài Gòn, ngày 17-12-61 và đăng ở Bách Khoa số 120), thấy "cây bút chuyên nghiệp chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, và nhiều tác giả chuyên nghiệp có một số lượng độc giả khá lớn không được nhắc đến" trong cuộc phỏng vấn do chúng tôi phụ trách. Anh quên rằng một cây viết truyện trinh thám võ hiệp và một cây bút phụ nữ chuyên viết truyện tâm lí, ái tình (cả hai đã từng có một số độc giả khá đông) đã được hỏi đến, và chúng tôi đã từng nhắn tin (Bách Khoa, số 117, mục hộp thư) mong được nhận ý kiến của một số nhà văn chuyên nghiệp có nhiều độc giả.
Có bạn trách chúng tôi sao lại hỏi chi những "người chưa có thành tích văn nghệ", nghĩa là những người chưa có gì để đảm bảo ý kiến phát biểu, như thế người phỏng vấn phải chịu trách nhiệm về những lời tuyên bố "khác thường của họ". Buộc như thế cũng tội cho người đi phỏng vấn cũng như người "bị" phỏng vấn!
Chưa có tác phẩm xuất bản, hoặc chỉ cộng tác với đôi tờ báo, tuổi còn trẻ, mà thiết tha với nghiệp văn chương, tỏ ra có gì độc đáo trong ý, trong từ, thì ý kiến đưa ra có thiếu dè dặt, thiếu khiêm tốn đi nữa - nhưng chân thành - ý kiến ấy vẫn đáng cho ta lưu ý.
Hơn nữa, tuy chúng tôi vẫn không dám quên những bậc đàn anh nhiều kinh nghiệm, những nhà văn nổi tiếng, chúng tôi lại đặc biệt chú ý đến lớp bạn trẻ hăng hái, chân thật, liều lĩnh phần nào, ít thành kiến mà nhiều táo bạo, muốn tìm những gì mới, lạ. Chúng tôi hy vọng những cây bút trẻ sẽ nói lên những băn khoăn cùng những hoài bão của thế hệ họ, để giúp chúng ta hiểu rõ thời đại mình hơn, vì họ là những người của ngày mai. Vả lại lớp nhà văn có tuổi thường ít hiểu - có khi không hiểu hay không chịu hiểu - thế hệ trẻ.
Đành rằng cây vững nhờ gốc lâu năm, nhưng xinh đẹp nhờ lá cành tươi trẻ. Chẳng lẽ giới thiệu một thứ cây mà chỉ để ý đến phần cội rễ, còn bỏ quên những tược, những chồi?
Có bạn lại trách chúng tôi sao hỏi nhiều quá, rồi trở đi trở lại cũng bao nhiêu ý kiến đó. Nhưng muốn có một nhận định gì về về quan niệm sáng tác các nhà văn bây giờ, thì chỉ thu thập mươi ý kiến - dầu chỉ là ý kiến của mươi cây bút có nhiều uy tín - thì hẳn là khó mà phản ảnh cho đầy đủ. Chúng tôi vì thế mà hỏi những bậc đã đi tới đích, những người đi được nửa đường và những bạn lên đường chưa được bao lâu, để rồi mới có rút một nhận định chung ít thiếu sót. Mà ý kiến có trùng nhau, chúng ta mới có thể rút ra vài quy tắc.
Và chúng tôi đã hỏi đến một trăm nhà văn, từ lớp lão thành thời Đông Dương, Nam-Phong đến lớp vừa vào làng sau hiệp định Genève; chúng tôi đã thu thập ý kiến những nhóm, những khuynh hướng xưa nay, nên ngoài những nhà văn độc lập, chúng tôi đã quấy rầy những bậc từng cộng tác với tạp chí Nam-Phong, trong văn đoàn Tự-Lực, Tiểu thuyết Thứ Bảy, Xuân-Thu thời tiền chiến, các bạn của nhóm Thế kỷ, Quan điểm, Văn hóa Ngày nay, Tân phong, Sáng tạo, Hiện đại, Văn nghệ, Tự do sau này, cùng một số các bạn ở hải ngoại; chúng tôi đặc biệt chú ý đến những nhà văn trúng giải văn chương trong nước, những cây bút có nhiều độc giả và những nhà văn có tác phẩm được nói tới trong các bài phê bình, điểm sách của tạp chí Bách-Khoa.
Vậy nếu các bạn không được đọc bài của vài cây bút tiêu biểu cho đôi xu hướng văn nghệ mới cũ, của đôi nhà văn có một thái độ khác biệt, xin các bạn hiểu cho rằng chúng tôi đã không có duyên với các nhà văn ấy, chớ chẳng phải chúng tôi đã bỏ quên vì lẽ này hay lẽ khác.
Giờ, chúng tôi xin ghi lại kết quả chung:
Hỏi: 100 nhà văn.
Trả lời: 70 (trong số này, có hai bạn: một bạn ở miền Trung và một bạn ở hải ngoại, trả lời riêng cho người phỏng vấn, bài phải để lại).
Tỉ lệ: 70% (lần phỏng vấn trước về truyện ngắn, tỉ lệ là 58,33%)
Đã đăng tới ngày nay: 56 bài.
Và để các bạn có một ý niệm tạm về thành phần các nhà văn đã góp ý kiến, chúng tôi xin chia các nhà văn ấy làm ba hạng:
1/ hạng viết trước cuộc Cách mạng 1945, có 26 người.
2/ hạng viết sau cuộc Cách mạng 1945, có 23 người.
3/ hạng viết từ hiệp định Genève 1954, có 21 người.
Những con số xê xích nhau không mấy.
Còn sau đây là kết quả:
1/ Về quan niệm sáng tác.
- Có bạn viết mà không ý thức việc mình làm. Viết vì thích, viết vì là một lẽ đương nhiên, như chim ca, dế khóc, cuốc gọi, ve than, viết như ăn, như ngủ, như nghỉ, như chơi, khiến ta ta nhớ đến quan niệm của Xuân-Diệu, hơn 15 năm về trước:
"Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngứa cổ hót chơi;
Hãy nghe lấy. Còn như sao rỉ rả,
Hỏi làm chi! Tôi không biết trả lời".
(Gửi hương cho gió)
* Có bạn chưa từng đặt thành vấn đề, nay "bị" phỏng vấn, mới cố nhớ lại, cố xét lại thì thấy:
- Hoặc vì không khí gia đình hay chung quanh: anh em, cha chú, bạn bè viết, rồi cũng lây "bịnh" viết,
- Hoặc vì hoàn cảnh, cảnh ngộ: cần sinh sống, cần trốn hiện tại, cần giải thoát tâm hồn, cần nói ra những cảm nghĩ, vì xem như một nghiệp vụ, vì dư thì giờ, vì bị bắt buộc, vì muốn giúp vui, vì được khuyến khích hay bị khiêu khích.
- Hoặc vì xúc động tâm lý hay thẩm mỹ: trước một cảnh thương tâm, một hành động áp chế, trước một hành vi cao cả, một cảnh trí nên thơ.
* Có bạn lúc nhỏ viết vì bắt chước, vì háo danh, vì chiều một người, rồi lớn lại cảm thấy viết là một bổn phận; bổn phận:
- đối với mình: nói lên những nhớ thương, uất hận, hoài bão, băn khoăn cho nhẹ lòng, nhẹ trí, để thực hiện bản ngã mình, để tìm người đồng điệu, để sống lại lần nữa hay sống thêm, để phản đối một cái gì mình cho là không phải, là chưa phải, để thực hiện vài giấc mơ, để giữ lại vang bóng một thời, để tâm hồn thơ thới, để thỏa mãn một nhu cầu hay một yêu cầu, để thi vị hóa dĩ vãng để thỏa cái hứng truyền cảm, để thấy đời có ý nghĩa, vì bị nội tâm thôi thúc, bị thúc đẩy, bị thu hút bởi một lực lượng vô hình, để phụng sự cái mình cho là thật, là lành, là đẹp.
- đối lới người: nói lên những cảnh lầm than, áp bức, bất công để mong xã hội được sửa đổi, để góp phần xây dựng cho nước nhà, cho nhân loại, để tải Đạo, để nói hộ giùm kẻ khác những vui buồn, đòi hỏi, để phụng sự nhân sinh, để tác động vào cuộc đời, để minh giải một lý thuyết văn nghệ, để góp một tiếng nói, một hơi thở vào đời của dân tộc, để gây tình Thương và niềm Tin, để thành tâm ca ngợi một cái gì (lòng Hy-sinh, sự Đau-khổ), để đề nghị với người đọc một sự đồng tình nào đó về thái độ sống, quan niệm sống hợp lí hợp tình hơn.
Viết cho mình hay cho thiên hạ? Đa số nhà văn viết cho mình trước, mà trong cái "cho mình" cũng có cái "cho thiên hạ" phần nào, một số ít nhà văn không rõ mình viết cho ai, một số vừa viết cho mình vừa viết cho người.
Còn viết cho bây giờ hay cho mai sau? Thì phần nhiều là viết cho bây giờ, không muốn nghĩ hoặc không dám nghĩ đến mai sau; một số ít không đặt thành vấn đề.
Trước khi sang câu hỏi thứ nhì, chúng tôi xin dịch một đoạn nói về quan niệm sáng tác của các nhà văn hiện đại Pháp (1940-1960), do Bernard Pingaud trình bày để các bạn có dịp so sánh. Ông viết trong bài giới thiệu, sau:
Viết bây giờ.
Văn chương là một khí giới để tự vệ. Tại sao người ta viết? Để tự biện minh hoặc để mình giải trí mình. Để "chào mừng cái đẹp", "cầm tấm gương mà dạo suốt một con đường", "cạnh tranh với tên tuổi mình trong hộ tịch", "cho những tiếng của bộ lạc mình một ý nghĩa nhã thuần hơn". Tất cả những lí lẽ này đều đúng cả, nhưng sâu xa hơn, người ta viết để tự vệ. Kẻ thù mà ta chiến đấu, ta không bao giờ túm lấy nó được, đó là một chiếc bóng, một khoảng không, một chỗ vắng. Chữ viết không nhằm lấp chỗ vắng này, có chỉ mong phát giác chỗ vắng ấy.
Ecrire aujourd'hui.
La litérature est une arme défensive. Pourquoi écrit-on? Pour se justifier ou se distraire, pour "saleur la beauté", "promener un miroir le long d'une route", "faire concurrence à l'étatcivil", "donner un sens plus pur aux mots de la tribu". Toutes ces raisons sont vraies; mais plus profondément, on écrit pour se défendre. L'ennemi que nous combattons est insaisissable, c'est une ombre, un vide, une absence. L'écriture n'a pas pour but de combler cette absence. Elle prétend seulement la révéler.
2/ Sáng tác theo đường lối nhất định nào hay là tùy hứng?
Câu này chỉ được một nửa số nhà văn hưởng ứng cuộc phỏng vấn trả lời.
Đôi người chưa có đường lối nào rõ rệt; vài người sáng tác theo cả hai thể thức.
Một nửa không có đường lối, có người cho rằng nếu phải theo một đường lối nhất định, thì nhất định là không viết được, có người chỉ muốn diễn tả lại cuộc sống, rồi tự nó muốn nói gì thì nói, muốn đi lối nào thì đi...
Một nửa có đường lối nhất định: có người không thể quan niệm viết mà không có đường lối nào cả, có người thấy đường lối rất cần để kềm hãm lấy mình, có người lúc mới bắt đầu viết thì viết theo tùy hứng, nhưng sau phải sáng tác theo một đường lối nhất định, vì xét đường lối giúp cho văn nghiệp có giá trị, có người vạch cho mình đường lối sáng tác, nhưng không theo hẳn một chiều.
Cũng nên ghi về thơ, thì mọi người đều sáng tác tùy hứng cả, và riêng một thi sĩ đặc biệt hướng về nông thôn.
3/ Những gì đã xảy ra trong tâm trí và trên trang giấy của tác giả từ khi tác phẩm bắt đầu thai nghén cho đến lúc nó thành hình?
Chúng tôi thấy cần nói riêng từng bộ môn (thơ, truyện, kịch) vì cách tìm đề tài, phương pháp làm việc cho mỗi bộ môn mỗi khác.
Về thơ, vai trò của cảm hứng rất quan trọng. Cảm hứng đến hoặc vì nội tâm, hoặc do ngoại cảnh, hoặc tại cảnh ngộ, thời cuộc.
Đề tài có rồi, thì phần đông cảm thấy làm thơ không khó mấy, nhất là khi mình có chân cảm. Có người sáng tác theo dòng cảm xúc, có người lại để nó đục phá tâm tư đến khi nào nó ra được thì ra, có người cấu tạo nó trong trí não, đợi khi thi phẩm hoàn thành hẳn, hay khi gần hoàn thành mới viết ra giấy, cho nên có người nuôi dưỡng bài thơ khá lâu, có người hứng đến, là cầm bút viết liền một hơi, việc diễn biến xảy ra trong tâm não cùng một lúc với sự diễn biến xảy ra trên trang giấy. Rồi sau mới đến công việc xóa, thêm, sửa, đổi, có khi khi được nửa bài, thì mất hứng đành để đó, chờ hứng trở lại. Hay sau một thời gian, đem ra đọc lại, rồi nhờ ý, tình, hình ảnh đã khi mà hoàn thành bài thơ.
Xem thế, phần tiềm thức, phần tình cảm đóng vai trò quan trọng trong việc thai nghén và thành hình. Phần lí trí đến để gọt giũa, chải chuốt cho bài thơ "đọng ngọc".
Truyện thì khác. Ở đây phần lí trí giữ vai tuồng quyết định.
Phần nhiều khi có đề tài rồi (do sự tình cờ, do sự tìm kiếm), nuôi dưỡng nó trong lòng, trong trí khá lâu, dựng cốt truyện, tạo nhân vật, tìm tình tiết, chi tiết, say sưa sống trong cái thế giới riêng với những nhân vật của câu chuyện, rồi sau một thời gian, hoặc do một cảm xúc gì rất mạnh thúc đẩy hoặc đến kì "đúng tháng đúng ngày", tác phẩm thoát thai ra mặt giấy.
Đề tài trên đây phát sinh ra từ một ý tưởng, một ý niệm, một lý thuyết hoặc một sự kiện.
Lắm khi bắt nguồn từ một nhân vật sống, có cá tánh hay tâm sự đặc biệt, hoặc nhân vật ấy ở trong một hoàn cảnh làm ta rung cảm khác thường, rồi viết từng đoạn, để cho câu chuyện, để cho nhân vật đưa ta đến hồi kết thúc, nghĩa là chính tác giả cũng không biết trước kết cục rồi sẽ ra sao. Trái lại, có một số nhà văn bố cục chặt chẽ, ban cho các nhân vật tánh tình rõ rệt, rồi cứ tuần tự viết, biết mình đi đến đích nào, và không vì một lẽ gì mà thay đổi tình tiết. Có người lại giao phó việc xây dựng cốt truyện cho tình cờ, cho tiềm thức. Có người khổ tâm mệt trí để tìm một cái gút cho câu chuyện và để tháo nó một cách tự nhiên. Đặc biệt có một nhà văn lại nghĩ đến kết cục trước, rồi đi ngược lại cho đến lúc khởi đầu, dọc đường cắm những cái trụ để làm dấu, vẽ những đường quanh co nối liền các trụ tượng trưng những tình tiết, rồi xóa những đường vẽ ấy, và bắt đầu viết, đi từ trụ đầu cho tới trụ chót.
Viết, thì có bạn viết một mạch từ đầu tới cuối, rồi sau mới xem kỹ lại, sửa chữa; có bạn viết từng đoạn, gạch bỏ, điền thêm, xong mới viết tiếp đoạn kế; có bạn không viết đúng theo thứ tự sắp sẵn, mà viết trước đoạn nào gợi hứng nhiều hơn, rồi sau mới chắp nối lại, như thể người ta quay phim, dán phim vậy.
Đa số để cho tưởng tượng một vai trò vừa phải. Còn nhân vật, thường mượn ở cuộc đời; có khi lấy hai ba nhân vật thiệt mà dồn vào một nhân vật trong tiểu thuyết.
Tác phẩm hoàn thành, người thì đem đọc cho bạn bè nghe để phê phán, rồi sửa chữa nếu thấy cần, người cho nó nằm ngủ trong một thời gian, rồi lôi nó dậy, đọc nó như đọc tác phẩm của người khác, để bớt, thêm, sửa đổi.
Trong khi viết, hoàn cảnh chung quanh, cuộc sống chính mình, tiếng động, màu giấy, ảnh hưởng một phần nào đến sự hoàn thành công trình nghệ thuật, hoặc dễ hoặc khó, hoặc mau hoặc chậm.
Kịch đòi hỏi nhiều công phu lúc sắp lớp lang, lúc dựng nhân vật, vì kịch là một biến cố trong đời được phản ảnh lên sân khấu, một mẫu của cuộc sống cần làm sao cho người xem chấp nhận nó như chấp nhận sự thực ở ngoài đời. Còn phần viết sau đó tương đối dễ dàng. Đề tài do một luận đề, một tâm trạng, một mẫu người đặc biệt đem lại. Nhân vật phần nhiều do đời cung cấp, và được nhấn mạnh ở những điểm cần thiết để nổi bật cá tính.
4/ Những kinh nghiệm sống và sáng tác thích nhất.
Muốn tác phẩm có sức truyền cảm mạnh, nhà văn cần phải thiết tha với "đứa con tinh thần" của mình, phải dựa vào cuộc sống mà sáng tác. Cảm hứng tuy cần để bắt tay vào việc, nhưng nên cho nó cái tỉ lệ 1% trong công việc hoàn thành tác phẩm, còn 99% kia dành cho sự "toát mồ hôi".
Trong khi viết, có hứng thì viết dễ hơn, nhưng không có, ta cứ viết, vì văn có chỗ giống như ăn cơm: "cứ ăn đi rồi sẽ thấy ngon miệng".
Cái tâm thành của người cầm bút đã cần, mà cũng cần gây vốn luôn luôn, gây bằng sự sống phong phú, hòa mình với chung quanh, cần đi để mở rộng tầm nghe thấy, cần đọc để bồi bổ kiến thức và để biết những trào lưu văn nghệ mới trên thế giới, cần tập luyện để trau dồi kĩ thuật.
Có bạn kinh nghiệm rằng những khi nghèo túng, những lúc "ở không yên ổn ngồi không vững vàng", những lúc bị thúc giục gắt, thì lại sáng tác mau, và hay. Có bạn lại chẳng viết được gì ưng ý khi vật chất thiếu thốn, tâm hồn dao động.
Mọi người đồng ý ở điểm cho rằng đời sống mà nghèo nàn cằn cỗi, bế tắc thì "đứa con tinh thần" khó mà thọ được, và một số thấy cần được sống một cuộc đời trong Sóng Gió, tất cả buồm đều giương lên, và Thể xác, và Tâm hồn, và Trí tuệ, tất cả buồm đều giương lên.
Phần hình thức, hầu hết đều chuộng sự giản dị.
Về truyện, một nhà văn lão thành có đúc lại kinh nghiệm của mình sau hơn ba mươi năm cầm bút:
- Đại cương truyện: phải rõ mình định viết về cái gì,
- Nhân vật: phải rõ ràng trong óc, phải "sống",
- Cốt truyện là phụ,
- Các việc xảy ra cần theo cái đại cương để diễn tả được đề mình đã chọn.
- Tìm chi tiết: về người, tả cho "sống", về việc, tả cho linh động.
Một nhà văn chuyên nghiệp trung niên đưa ra hai kinh nghiệm sau đây:
- Truyện càng nhiều chi tiết càng linh động (nhưng độc giả Việt ta sợ mệt, nên phải bỏ bớt rất nhiều chi tiết).
- Chi tiết không bao giờ bịa được như cốt truyện.
Một nhà văn trẻ tuổi sau một thời tích cực hoạt động rút kinh nghiệm: người văn nghệ thường thiếu óc tổ chức, do đó cơ sở văn nghệ lập được thường chóng đổ vỡ; vì thế sáng tác của cá nhân và tình trạng văn nghệ rộng lớn bị ảnh hưởng.
Hỏi về sáng tác thích nhất, thì số đông không thể trả lời: hoặc thích đều như mẹ thương bầy con, hoặc chưa có sáng tác nào làm mình thỏa mãn, hoặc thích nhất khi thai nghén, lúc hoàn thành xem lại, thấy "nó thế nào ấy", chỉ có một cây bút đàn anh hài lòng về tất cả sáng tác của mình vì đã "gửi gắm được tất cả tâm tư của tôi"; một số thích nhất tác phẩm ghi đôi kỉ niệm sâu xa, sáng tác trong một trường hợp đặc biệt, nói lên được nỗi khổ đau hay băn khoăn của giới mình, của thế hệ mình.
Qua phần tổng quát trên đây, chúng tôi nhận thấy:
Nhà văn nước ta phần đông viết về một sự ngẫu nhiên nào đó và để thỏa mãn "cái tôi" hơn là vì xã hội. Trường hợp một Lỗ-Tấn ở Tàu bỏ con dao giải phẫu của y khoa, trường hợp một Nhất-Linh ở ta vứt cây cọ của hội họa, để nâng lấy bút, bởi xét rằng y khoa và hội họa không thể chữa được căn bệnh ngặt nghèo của dân tộc mình lúc bấy giờ, là trường hợp ít thấy ở giới văn nghệ nước ta (tự nhiên là qua cuộc phỏng vấn này).
Viết để thỏa mãn mình, tiết để nói đến "cái tôi" là một điều chánh đáng. Nhưng chúng tôi e rằng nếu chỉ viết mãi về mình, chỉ khai thác bản ngã mình thì sau rồi sẽ đưa đến nghèo nàn, vì
Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu,
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người,
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện."
(Huy-Cận, Lửa thiêng)
sẽ đưa đến sự bất lợi cho tác giả và người đọc (nhà văn viết cho riêng mình, không cần người khác hiểu, dễ trở thành tối tăm, bí hiểm) - (Một bạn đọc trẻ đang tập viết văn, cô B.B.T., đã viết cho chúng tôi, nhân cuộc phỏng vấn này: "Tôi cho rằng văn chương chỉ là một cuộc nói chuyện tay đôi giữa mình và mình... Văn chương chỉ là một cuộc độc thoại liên miên của một người. Tôi viết để cho tôi; tôi viết cho những ham muốn không bao giờ thực hiện được").
Cho nên chúng ta sung sướng được biết một số nhà văn trước viết vì mình, sau viết vì người, một số nhà văn cố đánh dấu thời đại đặc biệt của chúng ta, cố nói lên những điều băn khoăn, rạo rực, những nỗi chua xót, bất bình cùng những đòi hỏi khẩn thiết của thế hệ hiện thời, thế hệ chúng ta.
Nhưng theo chúng tôi, kết quả quan trọng nhất của cuộc phỏng vấn này, là chúng ta được một số tiêu chuẩn để định đoạt giá trị của một công trình sáng tác văn nghệ, điều rất có ích cho người viết cũng như cho người đọc.
Nhờ bảy chục nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch đã vui lòng cho biết kinh nghiệm của mình mà giờ chúng ta có thể nói:
- Muốn dựng một công trình văn nghệ có giá trị, người cầm bút trước hết phải chân thành, thiết tha, rồi hiểu hoàn cảnh mình định gợi, thấu rõ nhân vật mình tạo, sao cho chất Sống của cuộc đời linh động bàng bạc trong tác phẩm; sau đó, diễn tả cho trung thực, và tránh việc "làm văn chương".
Chấm dứt loạt bài này, chúng tôi xin trích một đoạn thư của một độc giả (thư đề ngày 4-5-1961, của ông T.Đ.C.), gởi cho chúng tôi khi cuộc phỏng vấn mở ra được ít lâu:
"Đây là dịp may độc nhất được nghe các nhà văn, nhà thơ v.v... tẩn mẩn kể tâm tình, nói ra những kinh nghiệm sống đã gặp trên đường sáng tác, sự diễn tiến của tâm trạng họ lúc thai nghén một tác phẩm đến lúc nó chào đời ở khu vườn văn nghệ, tóm lại họ sẽ thành thật mở rộng cánh cửa lòng mà từ lâu vì khiêm tốn, vì ngượng ngập, họ ít khi chịu cởi mở".
Chúng tôi tin rằng các bạn đã được hài lòng mà thấy một số đông nhà văn đã mở cửa lòng và cửa trí cho chúng ta, mỗi người một cách.
Riêng phần người phụ trách, xin có lời cảm tạ những nhà văn đã vui lòng trả lời để những cuộc phỏng vấn văn nghệ của tạp chí Bách Khoa được thành tựu.
- Phỏng Vấn Doãn Dân Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Nhớ và nghĩ về bài quốc ca Việt - 2 Nguiễn Ngu Í Hồi ức
- Nhớ và nghĩ về bài quốc ca Việt Nguiễn Ngu Í Hồi ức
- Tổng Kết Cuộc Phỏng Vấn Về Quan Niệm Sáng Tác Của Các Nhà Văn Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Cuộc Phỏng Vấn Văn Nghệ Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Họa sĩ Hiếu Đệ Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Phỏng vấn các Họa sĩ Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Phỏng vấn các Nhạc sĩ Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Phỏng vấn Đinh Cường Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
- Nhạc sĩ Lam Phương, Nguiễn Ngu Í phỏng vấn Nguiễn Ngu Í Phỏng vấn
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Bùi Giáng (1926 - 1998) (Bùi Vĩnh Phúc)
• Ôn ra đi để lại nụ cười (Trần Trung Đạo)
• Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh (Viên Linh)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |