1. Head_

    Dương Quảng Hàm

    (14.7.1898 - 19.12.1946)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Đôi mắt La Ronda (Trần Hoài Thư) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      14-12-2016 | VĂN HỌC

      Đôi mắt La Ronda

       TRẦN HOÀI THƯ


          Nhà văn Trần Hoài Thư
      Lão ngồi khâu di sản
      Kim đâm mà không hay (THT)

      Ngày cuối cùng trước buổi hội luận “Chiến tranh Vietnam và hậu quả xã hội” tại Đại Học Massachusetts, tôi đã ngõ ý với La Ronda, người nữ đồng nghiệp, dành cho tôi nửa tiếng đồng hồ. Tôi kể đến buổi hội luận mà tôi sắp sửa có mặt và tầm mức quan trọng của cuộc thuyết trình... Về phía những người đến từ trong nước, họ đã có sẵn thông dịch viên. Còn chúng tôi phải tự một mình xoay sở bằng môi miệng mình nhưng ngôn ngữ người. Đây là một danh dự, không phải cho riêng cá nhân tôi, mà cho một tập thể.


      La Ronda đồng ý. Cô viết tờ giấy với hàng chữ: “Room in conference, don’t bother” và dán ngoài cửa phòng. Sau đó cô ngồi đối diện, nghiêm trang như một cô giáo. Trên bàn là sổ tay, và cô cầm cây viết chì, sẵn sàng ghi note. Trong kinh nghiệm nghề nghiệp tôi là người đi trước cô, nhưng bây giờ tôi là học trò của cô. Thú thật, tôi đã từng nhiều lần đứng thuyết trình và đã từng trải qua khoá học về kỹ thuật thuyết trình, nhưng chưa bao giờ tôi lại lo âu như lần này. Tôi nhìn chăm vào cô và nghĩ là đang nói trước một cử toạ đông đảo. Tôi đọc chậm và rõ. Cô không nói, chỉ note trên trang giấy. Cuối cùng sau tám phút đọc, tôi ngước nhìn cô. Tôi thấy đôi mắt cô đỏ và long lanh nước mắt. Cô khóc. Cô nói so wonderful. So wonderful… Sau đó, cô đã chỉ tôi vài chỗ cần thiết để nhấn giọng hay ngừng lại. Cô đã làm cho tôi tự tin hơn bao giờ. Dù vậy tôi cũng không thể đo lường được con tim của cô. Có lẽ cô nói để khuyến khích tôi, giúp cho tôi tự tin hơn hoặc vì phép lịch sự giữa những người đồng nghiệp với nhau.


      *


      Ba giờ rưỡi sáng, tôi lên xe rời thị trấn. Phải mất 5 tiếng đồng hồ lái xe mới lên Boston. Những người trên ấy muốn tôi lên càng sớm càng tốt để gặp nhau chuẩn bị. Trời đầy sương. Đôi mắt ráo khô, thần kinh căng thẳng. Tôi kéo cửa kính xe xuống. Gió sớm mơn man. Chỉ những cột đèn bầu bạn. Chỉ có thành phố ngái ngũ. Chỉ có con đường xa lộ dài hun hút, và những mảng đèn pha mờ nhạt trong sương.


      Vâng, thì lên đường. Ngày xưa, tôi có những chuyến đi về sáng như thế. Nhảy vào mật khu, tiếp viện hay tăng phái cho một chiến trường. Nhưng ngày xưa, bên tôi là đồng đội, là súng đạn, là những dắt dìu, bảo bọc nhau… Ngày xưa, nửa đêm kẻng dục quân ra trận. Kinh động cả lòng đêm tối bưng. Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy. Không buồn chỉ một chút bâng khuâng. (thơ THT) Ngày xưa, và bây giờ có khác gì đâu. Bởi vì từ lâu nay, cái nơi ấy vẫn được xem là nơi bất khả xâm phạm, không một nhà văn nhà thơ Việt Nam hải ngoại nào được quyền nói lên tiếng nói. Bởi vì nói đến văn chương chiến tranh, người Mỹ chỉ biết đến những cuốn sách của Bảo Ninh, Lê Lựu, Ngụy Ngữ, Thu Bồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Sáng. Không ai biết giòng văn chương miền Nam thời chiến qua 35 năm lâm chiến… Chẳng ai cần biết một kho tàng sách báo bị đốt hủy. Chẳng ai biết một nền văn học lẫy lừng hừng hực lửa, trái phá đã bị bức tử. Nơi này chỉ dành một Lê Lựu, Ngụy Ngữ, Nguyễn Quang Sáng, đã một lần đến đãy, rồi trở về nước viết bài chửi rủa mạt sát những người văn nghệ sĩ hải ngoại không chừa một mống.


      Chẳng ai cần thắc mắc về sự thật của những cây viết mà họ xem là trung thật về chiến tranh như Bảo Ninh khi tả cảnh toán thám báo đột nhập mật khu bắt ba chị nuôi hãm hiếp rồi trấn nước, trong khi vai trò của thám báo chỉ săn tin, phối kiểm tin tức tình bào, phải tự mình bảo vệ lấy mình giữa lòng địch. Chẳng ai cần thắc mắc một Ngụy Ngữ, nhà văn một thời mang bộ đồng phục miền Nam, được miền Nam ưu đãi, không đi tác chiến một ngày lại bôi nhọ chửi rũa lính miền Nam gọi thương phế binh miền Nam là bọn què quặt, kể lính rằn ri mỗi lần về phố là quán xá đóng cửa cài then, nhục mạ thậm tê người đã chết là cố đại úy Nguyễn văn Đương là tên sĩ quan dù... ngay trên những số báo Vấn Đề do Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo chủ trương…


      Vâng, họ đã bị lừ bịp bởi những nhà văn thiếu tư cách, vô liêm sĩ mà họ không hề biết.


      Tôi đã dừng tạm ở một Trạm Nghỉ. Quá mệt, và quá buồn ngủ... Trời đã sáng. Tôi lên đồi cây. Đứng yên. Trong nỗi cô liêu hiu quạnh, với những hàng thông, hàng sồi san sát, với màn sương còn che khuất những dãy núi bên kia đường, tôi lại liên tưởng đến bạn bè đồng đội của mình. Những thân cây che chở mạng người. Những hòn đá câm. Và mây trắng như ngày xưa chứng kiến những con ngựa chiến chinh bay về trời. Mười mấy năm chiến tranh đã hàng hàng lớp lớp những con ngựa bay về trời như thế. Tức tửi.


      *


      Xin được đi lại một đoạn của bài tôi thuyết trình:

      “Quí vị hỏi tôi viết gì. Trước năm 1975, tôi viết về cuộc chiến tranh, trong đó tôi và thế hệ của tôi đã lao vào, đã chiến đấu, đã bảo vệ cho quê hương tôi. Tôi viết bằng ngay cả máu lệ của chính bản thân mình. Có những bài văn tôi viết trong hầm phòng thủ. Có bài tôi viết khi bằng cảm giác hơn là lý trí. Đó là lúc tôi trùm poncho, trùm cả chiếc mền, bật đèn pin và viết trong giờ chờ giặc. Khi ấy, cảm giác đã đẩy ngòi bút, và hơi thở của tôi điều khiển tôi. Có bài tôi viết khi nằm trong bệnh viện, giữa những tiếng rên la quằn quại của những người lính thuộc đại đội tôi. Tôi đã hiểu thế nào là tiếng nổ của trái phá, và sự khủng khiếp của nó là như thế nào. Tôi muốn dùng những kinh nghiệm có thật của mình để nói về một cuộc chiến quá dài, quá kỳ lạ, tàn bạo hơn bất cứ cuộc chiến nào trên thế giới mà khí giới được nhập từ Nga Sô Trung Cộng và Hoa Kỳ. Nhưng trong tiếng gào thét của chiến tranh ấy, giữa những trang đầy máu của hai phe, và thêm những xác của trẻ con vô tội, tôi cũng viết về những điều hết sức kỳ diệu mà tôi đã gặp trong chiến tranh. Đó là lòng từ tâm của người lính VNCH. Điều ấy tôi đã được thấy khi sau khi một trận đánh kết thúc. Đó là lúc vai trò người lính của tôi không còn nữa mà nhường lại là vai trò của người viết văn.


      Tôi đã thấy lính tôi mời tù binh những điếu thuốc hay dìu họ lên trực thăng để tải về quân y viện. Tôi đã thấy trong bệnh xá những người thương binh Nam và Bắc ngồi lại nhau để chơi cờ, đàn hát cho nhau nghe những bài tình ca. Tôi đã hiểu là dân tộc tôi quá hiền từ thời đại này qua thời đại khác. Từ đó tôi tin rằng ai cũng có con tim. Rồi sẽ có một ngày người Nam kẻ Bắc sẽ bỏ hết hận thù sẽ quên đi quá khứ, bởi vì tuổi trẻ chúng tôi chỉ là những nạn nhân từ các thế lực chủ nghĩa. Một ngày nào, chúng tôi sẽ vùng dậy, sẽ lột mặt những tay đồ tể chiến tranh, sẽ nối lại vòng tay như qua bài hát cuả Trịnh Công Sơn: Từ Bắc vô Nam nối liền cánh tay. Nhưng giấc mơ của một người viết văn ấy đã bị tan vỡ sau 1975. Bởi vì tôi đã nhận ra rằng cái hậu quả của chiến tranh đã không ngừng lại ở đây, để đồng bào tôi, bạn bè con cháu tôi được sống an ổn trong những ngày hoà bình còn lại. Mà trái lại, đồng bào tôi lại trở thành một nạn nhân của hậu quả khác. Hậu quả từ những trái tim được nuôi dưỡng bằng một thứ chủ nghĩa chỉ được xây dựng bằng căm hờn và bạo lực. Đó là chủ nghĩa Cộng Sản.


      Thưa quí vị,


      Tôi có thật nhiều điều để muốn tỏ bày cùng quí vị về một nỗi đau khổ khủng khiếp của một người viết văn. Đó là lúc anh ta muốn viết mà không dám viết, muốn nói mà không được nói. Quí vị được may mắn là có thể viết tất cả những gì mà quí vị muốn, trình bày tất cả nỗi buồn vui của quí vị cùng độc giả. Nhưng có một nơi, văn chương được xem là một tai họa. Người ta đã tìm mọi cách để tận diệt văn chương. Bằng chứng, riêng cá nhân tôi, đây là những đứa con tinh thần của tôi, không phải tôi mang từ quê hương tôi qua, mà tôi đã thu thập chúng từ một thư viện của đại học Cornell Hoa Kỳ. Chúng vẫn còn sống sót cũng như bản thân tôi vẫn còn sống sót sau một cuộc chiến, sau những năm tháng tù tội. Vâng tôi là kẻ được may mắn được thoát khỏi cõi im lặng khủng khiếp ấy. Nhưng còn biết bao nhiêu người viết văn làm thơ khác của miền Nam với biết bao công trình văn chương đồ sộ của thời chiến tranh. Họ đã mất tiếng nói. Họ đã bị quên lãng bởi loài người. Họ không được nhắc nhở. Bằng chứng là hôm nay, quí vị không thấy họ mà chỉ thấy những người viết văn làm thơ trong hàng ngũ thắng trận. Như vậy đâu là công bằng, đâu là tiếng nói trung thật của văn chương, nhất là nền văn chương về chiến tranh VN?“

      *


      Khi chúng tôi chuẩn bị ra về, thì một người đàn bà bản xứ đã tiến đến bên tôi. Trên tay bà vẫn còn cầm cuốn sổ tay ghi những note. Bà ngước nhìn tôi. Và tôi bỗng thấy lại đôi mắt của La Ronda. Cũng đỏ hoe. Cũng ngấn lệ. Bà cám ơn tôi. Một tay bà đưa ra và siết chặt lấy bàn tay tôi. Bây giờ tôi mới hiểu rằng La Ronda không phải nói để lấy lòng tôi như phép lịch sự của những người đồng nghiệp với nhau.

      Trần Hoài Thư

      Nguồn: tranhoaithu.wordpress.com

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Lữ Quỳnh, Bạn Tôi Trần Hoài Thư Nhận định

      - Bức Tranh Quyên Sinh Trần Hoài Thư Tản mạn

      - Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết Trần Hoài Thư Tản mạn

      - Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ Trần Hoài Thư Nhận định

      - Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng Trần Hoài Thư Hồi ức

      - Hành trình tạp chí Chỉ Đạo Trần Hoài Thư Giới thiệu

      - Sự Mầu Nhiệm của Nghệ Thuật Trần Hoài Thư Tản mạn

      - Hành trình của ký giả Lô Răng Trần Hoài Thư Nhận định

      - Thăm vợ vào ngày giáng sinh Trần Hoài Thư Thơ

      - Quà Giáng Sinh 2021 của Blog THT: Thêm 72 số báo Văn của năm 1969, 1970, 1971... Trần Hoài Thư Giới thiệu

    3. Link (Tran Hoai Thu) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Trần Hoài Thư

        Cùng Tác Giả (Link-1)

      Trần Hoài Thư ... Mây Trắng Về Trời (Như Thương)

      Trần Hoài Thư Người Thầy Dạy Cũ (Trần Yên Hòa)

      Trần Hoài Thư, Ngọn Cờ Đầu: Nổ Lực Xiển Dương 20 Năm Văn Chương Miền Nam (Du Tử Lê)

      Thơ của người viết văn làm lính chiến Trần Hoài Thư (Hà Khánh Quân)

      Trần Hoài Thư và ước nguyện phục hồi văn chương Miền Nam Việt Nam (Hà Vũ)

      Vài hình ảnh kỷ niệm anh Trần Hoài Thư về Houston mừng Thư Quán Bản Thảo số 100 (Lương Thư Trung)

      Thơ Tình Tuổi Tám Mươi – Trần Hoài Thư (Doãn Cẩm Liên)

      Níu Một Đời, Giữ Một Thời (Ban Mai)

      Tình Yêu - Trần Hoài Thư (Doãn Cẩm Liên)

      Trần Hoài Thư và Ngọc Yến, với con chim chằng nghịch và nỗi nhớ quê (Ngô Thế Vinh)

      Chùm thơ Vịn của Trần Hoài Thư (Đỗ Trường)

      Nhà văn Trần Hoài Thư và việc xuất bản sách thân hữu (Trần Yên Hòa)

      Nghiệp Hành (Nguyên Minh)

      Vịn Vào Lục Bát Của Trần Hoài Thư (Phạm Văn Nhàn)

      Ra Biển Gọi Thầm: Niềm Đau Của Thế Hệ Lớn Lên Trong Thời Chiến (Lê Tạo)

      Trần Hoài Thư - Người Lính Và Nỗi Buồn Chiến Tranh (Đỗ Xuân Tê)

      Đọc "Truyện Từ Văn" của Trần Hoài Thư (Hoàng Ngọc Hiển)

      Trần Hoài Thư (Học Xá)

      Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư (Nguyễn Mạnh An Dân)

      Ngồi "Quán" Với Trần Hoài Thư (Lê Văn Trung)

      Lang Thang ... Quán (Nguyễn Lệ Uyên)

      Hành Trình Của Một Cổ Trắng (White Collar) (Phạm Văn Nhàn)

      - Tang lễ nhà văn Trần Hoài Thư (Trần Trung Đạo)

      - Vĩnh Biệt Anh Chị Trần Hoài Thư - Nguyễn Ngọc Yến (Vương Trùng Dương)

      - Tác Giả và Tác Phẩm Trần Hoài Thư: I,   II

        (Ngộ Không Phí Ngọc Hùng)

      - Trần Hoài Thư, Người của Di Sản Văn Học Miền Nam (Nguyễn Minh Nữu)

      - Giới thiệu nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư (Trần Trung Đạo)

      - Vịn Vào Lục Bát, điểm tựa cuối cùng của Trần Hoài Thư (Đỗ Trường)

      - Trần Hoài Thư, người khâu di sản (Trần Doãn Nho, nguoi-viet.com)

      - Trần Hoài Thư, 'hiệp sĩ lẻ loi' của văn chương miền Nam (Ðỗ Dzũng)

      - Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư, Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam (Phan Bá Thụy Dương, vnthuquan.net)

      - Trò chuyện cùng Trần Hoài Thư về Thư Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo (Trần Doãn Nho, luanhoan.net)

      - Nhà văn Trần Hoài Thư và tác phẩm “Văn Miền Nam Thời Chiến” (Mặc Lâm phỏng vấn, rfa.org)

      - Trần Hoài Thư và Châu Hải Châu (luanhoan.net)

      - Trang Trần Hoài Thư (art2all.net)

      - Blog Trần Hoài Thư & Thư Quán Bản Thảo

      - Facebook Tranhoaithu

      - Facebook Hoài Thư Trần

       

      Tác phẩm của Trần Hoài Thư

        Cùng Tác Giả (Link-2)

      Lữ Quỳnh, Bạn Tôi (Trần Hoài Thư)

      Bức Tranh Quyên Sinh (Trần Hoài Thư)

      Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết

      (Trần Hoài Thư)

      Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ (Trần Hoài Thư)

      Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng (Trần Hoài Thư)

      - Đọc một bài thơ "lục bát mới" trước 1975 của Thành Tôn,

      - Nhà Văn Trẻ Ấy Bị Thương,

      - Đi tìm “bài thơ trên xương cụt” của Chinh Ba ,

      - Trần Phong Giao và những người viết trẻ,

      - Ý Thức Và Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang,

      - Đi tìm Vũ Hữu Ðịnh ở Mỹ (Tạp bút)

       

      - Gò Bồi Bên Kia Sông,

      - Ra Biển Gọi Thầm,

      - Thủ Đức Gọi Ta Về,

      - Thám Báo,

      - Ngày cuối cùng của một cổ trắng

       

      Thư Quán Bản Thảo

      Tạp chí Văn học Nghệ thuật phát hành bất định kỳ, tập 1 (tháng 10-2001), tập 45 (tháng 1-2011), nhóm chủ trương: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Trần Bang Thạch, Cao Vị Khanh, NG~.

      Ðịa chỉ P.O Box 58, South Bound Brook, NJ 08880.

      Email: tranhoaithu@verizon.net

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)

      Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)

      Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)

      Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)