|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Tháng 8 năm 1967, bản dịch vở kịch “Những Ruồi” của J.P.Sartre do Phùng Thăng dịch được Thanh Hiên xuất bản. Đọc trên bìa ghi những tác phẩm sẽ xuất bản, chúng ta thấy Thanh Hiên là một nhà xuất bản chuyên trọng về lĩnh vực văn học và tư tưởng triết học. Các tác giả mà Thanh Hiên quảng cáo sắp in là Camus, J.P.Sartre, Nietzsche, Anderson, Tổ Quy Ngưỡng, Hermann Hesse, Sigmund Freud, Martin Heidegger, Chơn Hạnh, Phạm Công Thiện, Bửu Đích, Tuệ Sỹ, Nguyễn Nguyên Phương. Riêng về tác phẩm Phùng Thăng sắp in ngoài bản dịch Thế Giới Thiền của Nancy Wilson Ross, Buồn Nôn của J. P. Sartre, Con sói miền hoang nguyên (sau này đổi thành Sói đồng hoang – dịch chung với Chơn Hạnh) của Hermann Hesse, “Thư cho Tiểu Phượng”, một tuyển tập bốn tác giả: Linh Thoại, Phùng Thăng, Nhất Kiếm, Thiên Tứ (Tiểu Phượng là tên con gái đầu lòng của Phùng Thăng) ta thấy bà còn có thêm 2 tác phẩm triết luận là Theo Dấu Tình Yêu và Chỉnh Lý tư tưởng Tây phương... Điều này chứng tỏ ngoài khả năng dịch giả, bà còn là nhà tư tưởng triết học dù lúc ấy bà mới ngoài 20.
Sự xuất hiện của những cây bút đầy trí tuệ như Tuệ Sĩ, Phạm Công Thiện, Chơn Hạnh, Phùng Thăng, Bửu Ý, Nguyễn Nguyên Phương ... khi tuổi trung bình của họ 23, 24 tuổi trên trang bìa của Thanh Hiên đã khiến người đọc có cái nhìn lạc quan về nền văn học nghệ thuật miền Nam đặc biệt trong bộ môn dịch thuật và tư tưởng triết học vào cuối thập niên năm 60.
Năm 1967, cường độ cuộc chiến khốc liệt hơn bao giờ.
Bấy giờ, quân đội đồng minh đã có mặt. Những trận đánh có tính cách qui mô và trận địa chiến. Sự thiệt hại về nhân mạng gia tăng theo tầm sát hại của những vũ khí tối tân hiện đại. Lính Bắc chết không thể mang xác về quê. Lính Nam tử trận cũng khó lấy xác ngay vì mặt trận vẫn còn tiếp diễn hàng tuần. Bọ giòi thì nhung nhúc, những bầy kên kên thì bay trên đầu, lẫn với lũ quạ kêu kháo nhau vang động cả rừng. Nhất là vào mùa hè, mùi thúi xác người bốc lan khắp cả khu vực đến lợm mữa.
Loài ruồi sản sinh rất nhanh. Cứ nhìn vào những đống giòi bọ lúc nhúc mới thấy sức sản sinh khủng khiếp của chúng. Có loại ruồi hai mắt đỏ máu, mình mẩy xanh kim loại, có khi màu vàng kim, có khi màu đen.... Trên một thi thể có khi không thấy da thịt mà chỉ thấy cả một lớp ruồi nhặng bu đặc cứng.. Thêm vào đó, chúng là loài vật có khả năng bay rất nhanh và xa. Có thể ngày hôm trước chúng rút rỉa xác chết, thì ngày hôm sau chúng có mặt trên mâm cổ, mâm thịt cá ê hề. Ai biết?
Hình dưới đây là cảnh ruồi chết. Nó chẳng khác gì trong “những ruồi” mà Phùng Thăng dịch sau đây:
“- Anh hiểu chứ? Những con vật nhỏ ấy chết đi hằng triệu mỗi ngày. Nếu người ta thả lỏng qua thành phố tất cả những ruồi đã chết từ dạo hè năm ngoái, thì sẽ có đến ba trăm sáu mươi lăm con ruồi chết cho một nguời sống, đến xoay tròn chung quanh chúng ta. Gớm ! không khí sẽ ngọt những ruồi, người ta sẽ ăn ruồi, thở ruồi, chúng sẽ chảy xuống bằng những đợt lầy nhầy trong khí đạo và trong ruột chúng ta... Có lẽ vì thế mà tôi nghe trong phòng nầy thoang thoảng những mùi vị rất đặc biệt.”
(Những ruồi – trang 84)
Cảnh tượng những đàn ruồi của thành Argos trong thần thoại Hy Lạp xa xưa và cảnh tượng những đàn ruồi sản sinh từ cuộc chiến tranh khốc liệt tại miền Nam vẫn là một, chẳng khác.
Chỉ khác chăng là những đàn ruồi của thành Argos đã bị dẹp bởi Oreste. Còn ở miền Nam thì ngược lại, chiến tranh mỗi lúc một leo thang, ruồi càng lúc càng được mùa, càng béo bở.
Oreste vẫn ngủ yên, không thức dậy như Phùng Thăng mong mỏi:
Roquentin và Oreste là những nhân vật đang ngủ yên chờ giờ thức dậy nơi mỗi người trong chúng ta.
(Phùng Thăng, giới thiệu bản dịch “Những ruồi”, trang 4)
Chỉ khoảng một tháng sau khi Những Ruồi được phát hành thì bị Trần Thiện Đạo (TTĐ) dùng nguyệt san Văn để “phang” nặng nề qua bài viết Tìm hiểu vở kịch Les Mouches của Jean-Paul Sartre (nhân đọc bản dịch của Phùng Thăng). Bài đăng hai kỳ trên nguyệt san Văn tháng 11, tháng 12, dày tất cả khoảng 50 trang, khổ chữ nhỏ. Bài được người viết ghi là hoàn tất vào cuối tháng 9/1967.
Đặc biệt, kỳ 2 ông dành trọn bài để phang “Những ruồi”: Nào là “ một cái kho chất chứa chật ních và đầy đủ hết mọi lỗi lầm trong phép dịch văn”, “bản dịch vừa phản vừa diệt”, “khinh thường độc giả và miệt thị giới phê bình tới độ ấy”, “dịch chữ không dịch tinh thần câu văn”, cắt bỏ không dịch”, “cái giọng đặc Tây”, ngớ ngẩn”, chối tai”, “một thứ giấy khống chỉ…”, “cẩu thả”, “sai bét”, “ngờ vực cái vốn liếng Pháp Ngữ”, “không giữ tánh cách Việt Nam”, “vô nghĩa”, “thiếu nghĩa”, “tối nghĩa”,”lòng thòng”, “dịch ẩu”, “dịch càn”. “sai cả mẹo luật tiếng Việt Nam” “lối dịch đầu-gà-đít-vịt” “Chưa lảnh hội thấu đáo mẹo luật Pháp” v.v.... Ông xả tiểu liên trung liên AK, M16, B40. Ông tấn công đủ mặt, từ trang đầu đến trang cuối… Vây chặt, càng vây càng pháo...
Có điều ngạc nhiên là chẳng thấy một nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ hay phê bình nào thời ấy động lòng trắc ẩn lên tiếng bênh vực Phùng Thăng!
Rồi sau năm 1975, cứ ngỡ rằng chuyện cũ đã qua, hai cuốn Văn phát hành vào cuối năm 1967 nằm dưới huyệt mồ, Những Ruồi cũng nằm rã xác cùng tro bụi trong huyệt mồ vĩ đại phần thư của Tần Thủy Hoàng tái sinh. Cứ ngỡ rằng cái chết thảm khốc của chủ của nó cùng với con gái, búa hay cuốc báng vào sọ, như chứng từ của những người dân Miên về tội ác khủng khiếp của bọn quỷ Pol Pot trong tòa án tội phạm chiến tranh đã xem như đi vào cõi lãng quên… Cứ ngỡ rằng Phùng Thăng đã chọn được thiên đàng trong địa ngục. Cứ ngỡ rằng bé Tiểu Phượng cũng đã chọn được một vòng tay của mẹ ôm chặt không rời trước khi bé hét mẹ ơi… Cứ ngỡ Phùng Thăng đã tha thứ kẻ phỉ nhổ mình vì Phùng Thăng là mẹ, một mẹ Phùng Thăng như Bùi Giáng đã hết lòng tôn kính, thay vì cầm cuống hoa huệ hoa sen để bay lên trời, để tiêu diêu miền cực lạc, lại ôm chặt lấy con sợ con phải bơ vơ làm ma trẻ lạc loài, để đứng trên bờ biển Đông mà chịu tội thế cho cả miền Nam lao vào cơn đại hồng thủy. Cứ ngỡ những gì quá sức thảm khốc mà Phùng Thăng đã trả cho một kiếp làm người VN cũng đã đánh động một chút lương tri của những kẻ từng lên phê phán bà hầu hương hồn bà được thảnh thơi siêu thoát, nếu chúng ta tin có một cõi gì khác bên kia thế giới …
Vậy mà ông TTĐ chẳng chịu buông tha. Năm 2001, ông là kẻ đào huyệt, khai quật để bới đào cuốn Những Ruồi mà năm 1967 ông đã phang tơi tả thậm tệ trên tạp chí Văn. Ông sửa chửa lại chút đỉnh rồi bỏ vào tác phẩm “Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Tới Thuyết Cấu Trúc” dưới tựa : “Đọc bản dịch Những Ruồi của Phùng Thăng” và giao cho nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội xuất bản và phát hành. Bảy năm sau ông lại giao cho nhà xuất bản Trí Thức tái bản lần nữa.. Sách của ông được bày trong tủ sách gia đình, được dùng làm tài liệu tham khảo cho các vị làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ về chủ thuyết hiện sinh. (**)
Đây là bằng chứng ba lần tập kích:
Lần tập kích thứ I trên nguyệt san Văn số 1 & 2 tháng 11, 12 năm 1967:
Lần thứ hai, trên cuốn sách nhan đề từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh tới Thuyết Cấu trúc do nhà xb Văn Học xuất bản năm 2001:
Thừa thắng xông lên ông đánh lần thứ ba (nxb Trí Thức, 2008)
Ngày xưa, thời Thịnh Đường, Vương Bột (650–676) trên đường vượt biển từ Trung Quốc về Giao Chỉ thăm cha, chẳng may thuyền gặp sóng to gió lớn, phải chết chìm. Xác tấp vào bờ, dân địa phương lập miếu thờ đàng hoàng tử tế để chứng tỏ lòng biết ơn và thương tiếc đối với tác giả Đằng Vân Các Tự của người Việt Giao Chỉ. Ngay trong thời chiến tranh Nam Bắc, dù khi còn sống là địch là thù, nhưng khi những người lính Bắc tử trận, chúng tôi vẫn chôn cất tử tế, mong rằng hương hồn họ được siêu thoát. Nhưng đàng này thì ngược lại:trong văn học sử Việt Nam chỉ có ông Trần Thiện Đạo là mang cái dao cái búa mà tiếp tục đập, phang, chém đứa con tinh thần của người đã khuất bóng. Ông ta muốn chứng minh chủ thuyết mới: Chết là không hết. Nghĩa tử không là nghĩa tận!
Sách của ông bán chạy. Trong tương lai, chắc ông sẽ tái bản nhiều lần nữa. Vì cuốn sách được ca ngợi xưng tụng hết mình: “Dịch giả Trần Thiện Đạo - Người đồng hành với sự hoàn mỹ của việc dịch thuật” (trên đài Tiếng Nói Việt Nam 17-3-2012), được một số trang Mạng đăng lại. Nào là phê bình gia nhận định gia Thụy Khuê phỏng vấn ông về vai trò, chức năng, quan niệm của Trần Thiện Đạo về dịch thuật...
Chỉ có một mình chủ blog Nhị Linh là dám chê TTĐ: “Trần Thiện Đạo kém Phùng Thăng quá, quá xa, đến mức không thể so sánh được.”! (chúng tôi sẽ triển khai sau)
Nói tóm lại, hầu hết xem Trần Thiện Đạo là một dịch giả có uy tín, một bậc thầy về thẩm định dịch thuật, một là TTĐ nói, hai là TTĐ nghĩ, ba là TTĐ tuyên bố....
Và đây là lý do chính để tôi viết bài này.Tôi không thể để ông TTĐ tiếp tục đánh thêm Phùng Thăng khi bà đã chết. Dù tôi nghĩ rằng rồi cũng có ngày ông TTĐ sẽ có dịp gặp Phùng Thăng và sẽ trả lời với Phùng Thăng ở bên kia thế giới!
Khả năng dịch thuật của TTĐ được Nhị Linh (tức Cao Việt Dũng sinh năm 1980) nhận định như sau:
“Trần Thiện Đạo kém Phùng Thăng quá, quá xa, đến mức không thể so sánh được.
Trần Thiện Đạo rành tiếng Pháp, nhưng là một thứ tiếng Pháp máy móc, không có gì đặc biệt, và nhất là, Trần Thiện Đạo có một thứ tiếng Việt của trẻ con học đòi làm người lớn. Khi dịch Le Petit Prince, Trần Thiện Đạo chính là người nhầm Đại Tây Dương thành Thái Bình Dương, không những thế còn tạo ra một cụm từ theo tôi là đỉnh cao của lịch sử dịch thuật lẫn lịch sử dùng từ của Việt Nam: "tể tướng bộ tư pháp". Ngoài đó ra, ở các bản dịch khác, Trần Thiện Đạo cũng thế. Nhưng mấy điều này, theo tôi chẳng quan trọng mấy, quan trọng nhất là, Trần Thiện Đạo tạo ra một mẫu hình tuyệt vời cho sự nhất thiết phải tránh ở dịch thuật: không biết tiếng Việt nhưng lại rất to mồm. Và Trần Thiện Đạo cũng là điển hình cho một nhóm: trí thức của các diaspora Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt về "nhóm Paris", tả hay hữu, tôi có nhiều điều để nói lắm, nhiều lắm lắm.”
(Nhị Linh: Văn chương miền Nam: Phùng Thăng, nguồn: http://nhilinhblog.blogspot.com/)
Đấy, giữa lúc thiên hạ nô nức khen ngợi TTĐ thì chỉ có Nhị Linh lại bênh vực Phùng Thăng, dám trả lại sự thật cho người đã khuất. Xin nhớ rẳng Nhị Linh sinh năm 1980.
Riệng tôi, bằng chứng về khả năng việt ngữ của TTĐ, thì tôi có đây, nhiều lắm. Chỉ đưa ra vài ví dụ điển hình. Đó là TTĐ dịch chữ Littérature là “văn nghệ” trong khi bất cứ một học sinh trung học nào cũng biết nghĩa của nó là văn chương, văn học. Văn chương và văn nghệ khác nhau một trời một vực!
Không ai ngu gì mà dịch Prix Nobel de littérature là “giải Nobel văn nghệ” hay littérature vietnamienne là “văn nghệ Việt nam”!!!
Còn một chữ rất căn bản khác. Đó là chữ “les”. Ông dịch là “mấy”!
Khủng khiếp hơn là ông dùng cái cụm từ “đa cậu”, “nhà chổng đít”... để dạy Phùng Thăng là “phải giữ tánh cách VN”!!!
(Chúng tôi sẽ bàn rõ sau).
Đây là bằng chứng TTĐ dịch: Que peut la littérature?: văn nghệ có thế lực gì. ((nguồn Văn số 78 năm 1967 chủ đề Simone de Beauvoir)
Không ai tự cho mình là người dịch giả toàn hảo, bởi kẻ ấy không phải là tác giả. Cũng chưa hề có dịch giả nào lại đi chê tác giả (chúng tôi sẽ nói sau). Vấn đề chính là dịch làm sao để người đọc hiểu, và cảm thấy hợp lý hay không. Dù khả năng ngoại ngữ siêu đẳng cách mấy nhưng dịch chữ littérature là văn nghệ hay Đại Tây Dương thành Thái Bình Dương hoặc “tể tướng bộ Tư Pháp” như chủ Blog Nhị Linh đã đưa ra, thì cũng khó mà mang cho độc giả một chút gì tin cậy vào khả năng Việt ngữ của dịch giả.
Có người sẽ hỏi: Tại sao Phùng Thăng lại không lên tiếng?
Xin hỏi lại: Lên tiếng ở đâu, trong khi Văn ở trong tay ông TTĐ, ông ta một mình một cõi tung hoành?
Hơn nữa, Phùng Thăng không phải là “típ “người ưa xông xáo, tranh luận. Bà là một mẫu người mà người bạn học cũ là Thái Kim Lan nhận định:
“Chị lặng lẽ đến như thế ấy. Lặng lẽ như tôi đã nhiều lần giật mình khi thoạt nhìn. Lặng lẽ đi và đến, ngồi ở thế gian giây phút rồi bỏ đi. Bóng áo trắng thấp thoáng sẻ sàng không gây tiếng động, đến nỗi khi cố tìm lại chị trong ký ức, tôi có cảm giác e dè sợ kinh động sự lặng lẽ ấy, sợ sẽ tan biến đi hình hài trong ký ức đẹp nhất về một con người...”
(Thái Kim Lan: Nhớ Phùng Thăng, TQBT số 59)
Nếu mà ông TTĐ gặp cở Nguyễn thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Nhã Ca thì chắc phải từ chết đến bị thương cũng không biết chừng. Nội cái câu phê bình gái Huế của Trần Phong Giao mà Nhã Ca, Túy Hồng làm dữ đến nỗi ông Trần Phong Giao phải lên tiếng công khai xin lỗi. (xin xem TQBT số 61 chủ đề Hiện tượng văn chương nữ giới viết rõ về vụ này) hay một bài viết của N.T.Thụy Vũ nhằm biện hộ tại sao phụ nữ làm nghệ thuật khiến những vị phê bình gia thủ cựu phải tá hỏa:
...Đàn bà vốn là cái xương sườn của đàn ông. Nếu Chúa lấy một phần bộ óc của Adam và nấu thành bà Eve thì có lẽ hiện thời đàn bà thông minh hơn đàn ông. Đằng này Chúa lại lấy cái xương sườn. Hèn chi đàn bà ưa nói xốc hông đàn ông, và khi các bà nổi cơn ghen tuông, các bà nói nhiều câu động trời các ông tức bể cả phổi, tức ê ẩm cả xương sườn lồng ngực. Đấy nhé! hỡi những chiếc xương sườn của đàn ông ở mọi lãnh vực, nhất là lãnh vực nghệ thuật. Chúng ta phải làm cho họ có một mặc cảm tự tôn và chuyện đòi hỏi vấn đề bình quyền với đàn ông là thuộc về huyền thoại hẳn hoi rồi.
(Nguyễn thị Thụy Vũ: Khi người phụ nữ làm nghệ thuật. Nguồn: TQBT số 61)
Một điều rất ngạc nhiên, có một người nữa mà ông không đụng, không hề nhắc nhở, không biết vì lý do gì, dù người ấy đã phạm lỗi lầm rất quan trọng khi dịch tác phẩm Les Mouches của J.P.Sartre. Đó là dịch giả Châu Diên. Sách in năm 1989, với 20 ngàn ấn bản được phát hành.
Trong Ruồi của Châu Diên, dịch giả đã cho Oreste đóng vai anh ruột của Électre, trong khi ai đọc chuyện thần thoại Hy Lạp đều biết Oreste là em trai của Électre.
Với cái nhầm lẩn hết sức quan trọng như vậy, mà ông TTĐ không hề lên tiếng phê phán. Để 20 ngàn ấn bản bán sạch trong khi Những Ruồi của Phùng Thẳng nằm dưới huyệt mồ thì bị ông lôi lên đập! Chuyện thật lạ đời!
Sau trận tập kích cuối năm 1967 của Trần Thiện Đạo, rồi đến trận tập kích của phe Cộng Sản Bắc Việt vào Tết Mậu Thân 1968, mà Vĩ Dạ là nơi xem như bị ảnh hưởng nặng nề nhất, khiến bản thảo của bà bị thất lạc, bà hoàn toàn tuyệt vọng. Không ai có thể nghĩ là bà can đảm tiếp tục cho ra đời thêm một dịch phẩm khác sau cú “sốc” dữ dội này. Vậy mà đến năm 1973 tức là hơn 5 năm sau, bà vẫn cho in bản dịch “Kẻ Lạ Ở Thiên Đường”, của Simone Weil, do An Tiêm xuất bản.
Tôi đã đọc nhiều bài phê bình, nhưng chưa có một bài phê bình nào lại mang những luận điệu hằn học, miệt thị đến độ điên cuồng như ông Trần Thiện Đạo phê bình Những Ruồi của Phùng Thăng.
Còn từ ngữ nào hơn để Trần Thiện Đạo “đánh”, “phang” Phùng Thăng? Đánh vào năm 1967, chưa hả, đánh thêm vào năm 2001. Chưa hả! Lại bồi thêm vào năm 2008 trong khi PT đã chết, lại chết thảm, trong khi sách bị đốt thành tro bụi, tìm nó như tìm vàng, phải nhờ vào thư viện Cornell?
Đây là một vài ví dụ trong bài chửi này:
Trước hết là chữ “những”:
Trên đời nay tôi chưa bao giờ thấy ai lại dị ứng cái chữ “những” như Trần Thiện Đạo.
PT dịch les mouches là “những ruồi”, ông sửa lưng phải dịch là “ruồi”!
Ông dạy PT phải “giữ tánh cách Việt Nam”!
Dưới đây là nguyên văn ông trưng ra để chê bai Phùng Thăng:
Nguyên tác : (...) Ah! que, les mouches d'Argos m'ont l'air beaucoup plus accueillantes que les personnes. (...)
(Les Mouches, sđd, tr. 14)
Phùng Thăng dịch : (...) A! Vậy đó, những con ruồi ở Argos đối với tôi lại có vẻ niềm nở hơn những con người. (...)
Và ông dạy PT phải dịch như ông để “giữ tính cách Việt Nam”:
(...) Ý, trời mấy con ruồi này coi bộ biết niềm nở hơn con người ở Argos nhiều đó, đa cậu. (...)
Ông thay “những con ruồi” bằng “mấy con ruồi” và “những con người” bằng “con người”.
Thú thật đọc đoạn ông dịch để “giữ tánh cách VN”, tôi không khỏi phì cười. Nhất là 2 chữ “đa cậu”. Thưa ông, tôi là dân Trung, nghe chữ “đa cậu” có vẻ làm sao ấy.
Còn nữa. Cụm từ mấy con ruồi mà ông dịch từ les mouches, tiếng Tây là quelques mouches! Quelques nghĩa tiếng Việt là “mấy, vài”! Quelque (số ít), Quelques (số nhiều), khác với les mà ông!
Còn nữa. Bạn có bao giờ nghe ai nói là ngôi nhà “chổng đít” ra đường không ?
Vậy mà TTĐ lại dịch, nói là để “giữ tánh cách Việt Nam”:
Nguyên tác:
Elles les ouvrent sur des cours bien closes et bien sombres, j’imagine, et tournent vers la rue leurs culs. (...)
(les mouches, tr.12)
TTĐ dịch:
... Chắc là loại nhà này cửa sổ ngó ra sân sau kín bưng và om tối và chổng đít ra đường (...)
(tập san Văn số 2, tháng 12-1967)
Chó chổng đít.... (hình sưu tập từ Internet)
Tôi thì chỉ nghe động tác “chổng mông”, “chổng đít”, “chổng khu” chỉ dành cho con người, đôi khi con vật... (Thường thường, nó mang cảnh tượng chẳng đẹp đẻ gì, khiến phái nử phải đỏ mặt và các bà mẹ phải bịt mắt con cái không cho nhìn) chứ chưa bao giờ nghe ai nói dành cho ngôi nhà! Đúng là dịch giả số một TTĐ!
Còn nữa, hết dạy tiếng Tây, TTĐ lại dạy tiếng Nho. Ông chê Phùng Thăng dịch cẩu thả: Người thiếu phụ trẻ (dịch Une jeune femme). Đã “thiếu” phụ sao lại còn “trẻ”?
Tôi rất dốt chữ nho nên chỉ tìm hiểu qua GOOGLE. Để xem có bao nhiều kẻ “cẩu thả” như PT, thử google search “thiếu phụ trẻ” trên Mạng chúng ta sẽ thấy có tất cả 22100 bài viết sử dụng cụm từ “thiếu phụ trẻ”. (Đó là chỉ dùng Unicode, chưa kể VNI, VPS, VIQR, VISCII. ..).
Còn cái cụm từ “trường phái Chú Mục” mà TTĐ tự sáng chế khi dịch từ “La Force des choses” (trang 648) của Simone de Beauvoir thì zero!
No results found for "trường phái chú mục".
Ở phần cuối của bài chửi, ông dùng bản dịch Câu Chuyện Một Dòng Sông (dịch chung với Phùng Khánh) để biện minh tại sao ông lại phải bắt buộc phê phán nặng nề Phùng Thăng:
“Trước khi chấm dứt bài điểm sách khá dài này, chúng tôi cũng muốn tìm hiếu tại sao Phùng Thăng cây bút đã được độc giả tin cậy qua bản dịch Câu chuyện của dòng sông, xuất bản trước đây lại có thế cho in một bản dịch vừa phản, vừa diệt như bản dịch Những Ruồi, lại có thể, khách quan mà nói, khinh thường độc giả và miệt thị giới phê bình tới độ ấy. Chúng tôi nghĩ rằng Phùng Thăng đã không đủ bình tĩnh mà suy xét để xem sự tín nhiệm của người đọc đối với cô, nhờ bản dịch đầu tay vừa nhắc tới trên đây, như một lời ban khen nặng nề trọng trách đối với độc giả và như một lời khuyến khích mình tiến dấn tới chỗ tuyệt hảo, mà đã coi nó như một thứ giấy khống chỉ cho phép cô tùy tiện muốn dịch sao thì dịch, không màng lưu ý tới chỗ mình có thể khiến người đọc hiểu sai và biết lầm. Và đó là một thái độ, một tinh thẩn đáng trách.”
(Nguyệt san Văn số 2 tháng 12, 1967, trang 87. Đăng lại trong Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Tới Thuyết Cấu Trúc, trang 132, Trí Thức xb năm 2008).
Mô Phật. Lạy Chúa. Bởi vì ông Trần Thiện Đạo dốt tiếng Đức nên ông không đọc được nguyên tác truyện “Siddhartha” trong tập “Weg nach Innen” (Đường về nội tâm) của Hermann Hesse (1877-1962, giải Nobel Văn chương 1946). Nếu mà ông đọc được chắc thế nào ông sẽ la làng sao lại dịch Siddhartha (Tất Đạt) là Câu Chuyện Một Dòng Sông!? hay tại sao lại dùng chữ “những” quá nhiều, hay không dịch theo “cách Việt Nam”: Ý Trời! Đa cậu!!! Vậy nè! ...
Mặt khác vào năm 2012 trong một bài phỏng vấn trên tạp chí Văn Nghệ ở Hà Nội, ông tuyên bố một trong hai nguyên cớ “khiến cho tình trạng dịch thuật cho tới nay thiếu chất lượng tới mức cần phải khẩn thiết báo động” là: “Bản dịch không dựa trên nguyên ngữ mà trên một bản dịch khác” (1).
Thưa ông, Câu chuyện một dòng sông dựa vào bản tiếng Anh để dịch (2). Nó không phải từ nguyên bản tiếng Đức. Có nghĩa là – theo ông- nó thiếu chất lượng. Vậy thì tại sao ông lại đi khen nức nở nó, hở?
Ngôn ngữ nói lên phẩm chất của nhân vật. Mỗi thứ ngôn ngữ phải có chỗ đứng của nó.
Văn chương của Phùng Thăng chính là con người của bà: Một loại văn chương chọn lọc, sang cả, cẩn trọng. Ngôn ngữ Phùng Thăng sử dụng lột tả được vai trò của Thần, của Gods… đồng thời cũng vẽ lên được nhân cách quá đẹp của bà - Phùng Thăng, một đời tài hoa bạc mệnh!
Trần Thiện Đạo lầm lẫn “tính cách Việt Nam” với sự sàm sỡ, với ngôn ngữ cục mịch. Những chữ như “Ý, trời!” hay “... đa cậu” “cậu nè”, “như vầy”, “chổng đít” mà TTĐ cố nhét vào “Ruồi” của ông, chúng chỉ hay khi phát ra từ miệng một người dân quê Nam Bộ, thuở xã hội còn sơ khai, như các nhân vật trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam chẳng hạn.
Đọc ngôn ngữ phê bình của TTĐ, chúng ta nhận ra một thứ ngôn ngữ của một con người võ đoán, hẹp hòi, ngạo mạn, coi thiên hạ là đồ bỏ, luôn luôn muốn làm thầy thiên hạ.
Bản chất này được biểu lộ qua những câu như: “phải dịch như sau thì mới đúng và có nghĩa”, “phải dịch như sau đây thì mới sáng nghĩa” trong bài viết của ông.
Nói như Nhị Linh: TTĐ là kẻ “không biết tiếng Việt nhưng lại rất to mồm”!
Vâng to mồm thật. Ngay cả Camus, TTĐ cũng còn chê là viết lủng củng bắt ông ta cũng dịch lủng củng theo (3) trong khi ông không phải đẻ ở Pháp mà qua Pháp lúc 15 tuổi, làm Tây mũi tẹt, đáng xách dép cho Camus!
Ông thật xứng đáng làm giáo chủ của trường phái “nghĩa tử không là nghĩa tận”!
_____
(1) Văn Nghệ số 16 ngày 21-4-2012.
(2) Xin đọc Câu Chuyện Dòng Sông và dịch giả Phùng Khánh của Thái Kim Lan đăng trên nhiều trang mạng.
(3) nguyên văn: Như một lần tôi dịch tác phẩm của Camus. Camus có thời viết lủng củng, tôi cũng dịch lủng củng như thế. (nguồn Tuoitre online ngày 09/01/2007: Dịch giả Trần Thiện Đạo: Phải tôn trọng văn phong của tác giả)
(**) Một vài bài luận án được post trên NET như của Nguyễn thị Nguyệt Anh (luận án thạc sĩ), Nguyễn Lê Thạch (luận án tiến sĩ), Vương văn Tín (luận án thạc sĩ) đều dùng cuốn sách của TTĐ làm tài liệu tham khảo.
(Trích từ tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 71 phát hành tháng 8 -2016 chủ đề: Chiều đầy bông Phùng Thăng)
Trong bài viết, chúng tôi có đề cập đến nhận định của Nhị Linh về khả năng dịch thuật của TTĐ, qua hai ví dụ là Đại Tây Dương và Tể tướng Bộ Tư Pháp trong Cậu Hoàng Con, bản dịch của Trần Thiện Đạo, Khai Trí xuất bản năm 1966.
Để giúp quí bạn thấy rõ hơn về việc đánh giá này, chúng tôi xin đăng lại trang chụp liên hệ từ cuốn sách Cậu Hoàng Con mà chúng tôi mượn được từ một thư viện đại học Mỹ. Mặt khác chúng tôi cũng kèm thêm một số trang chụp khác, như là chứng cớ nói lên khả năng dịch thuật và xem thường độc giả của TTĐ đến mức như thế nào!
Nguyên tác:
.... On pourrait entasser l’humanité sur le moindre petit îlot du Pacifique.
(SĐD, trang 50)
TTĐ dịch Général là “thiếu tướng”!
(Nguyên tác: ... si j’ordonnais un général de se changer en oiseau de mer, et...)
Tệ hại nhất là cẩu thả vô trách nhiệm, coi độc giả không có kí lô nào. Chẳng hạn cái cụm từ : “Ruồi chú sẽ phải đau lòng” thay vì “Rồi chú sẽ phải đau lòng”:
Hay “ những vì tôi đang trông thấy”! (SĐD, trang 107)
(nguồn: tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 71 tháng 8-2016 chủ đề Chiều Đầy Bông Phùng Thăng mới phát hành)
- Lữ Quỳnh, Bạn Tôi Trần Hoài Thư Nhận định
- Bức Tranh Quyên Sinh Trần Hoài Thư Tản mạn
- Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết Trần Hoài Thư Tản mạn
- Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ Trần Hoài Thư Nhận định
- Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng Trần Hoài Thư Hồi ức
- Hành trình tạp chí Chỉ Đạo Trần Hoài Thư Giới thiệu
- Sự Mầu Nhiệm của Nghệ Thuật Trần Hoài Thư Tản mạn
- Hành trình của ký giả Lô Răng Trần Hoài Thư Nhận định
- Thăm vợ vào ngày giáng sinh Trần Hoài Thư Thơ
- Quà Giáng Sinh 2021 của Blog THT: Thêm 72 số báo Văn của năm 1969, 1970, 1971... Trần Hoài Thư Giới thiệu
• Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết
(Trần Hoài Thư)
• Trần Thiện Đạo: Khi nghĩa tử không là nghĩa tận... (Trần Hoài Thư)
• Văn chương miền Nam: Phùng Thăng (Nhị Linh)
• Nhớ Phùng Thăng (Thái Kim Lan)
• Dịch Giả Thích Nữ Trí Hải (Viên Linh)
• Hai Câu Chuyện Một Tâm Tình (Đào Anh Dũng)
• Ảnh Hưởng Những Dịch Phẩm Của Phùng Thăng... (Trần Hoài Thư)
• Viết Về Phùng Thăng (Trần Hoài Thư)
- "Câu chuyện dòng sông" và câu chuyện của NXB Hội Nhà Văn (Việt Lang)
- "Câu chuyện dòng sông" và nữ dịch giả Phùng Khánh (talawas.org)
- Từ Trần Hoài Thư Đến Phùng-Thăng-Tưởng-Niệm (dutule.com)
- Câu Chuyện Dòng Sông (phapamgiaithoat.com/)
- Bắt Trẻ Đồng Xanh (da.tailieuhoctap.vn)
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |