Nhà yêu nước Trần Cao Vân
(1866 - 3.5.1916)
So với thi ca thế giới, thơ Việt Nam nổi bật về cả thể lẫn loại, chúng ta có dòng lục bát đặc thù, lại là thể thơ sở trường dùng để kể những câu chuyện dài, mặt khác về loại, chúng ta giàu có về loại thơ trong tù. Niềm vinh dự đó thật ra là niềm đau nỗi nhục: sĩ phu Việt Nam thời nào cũng ở tù, sống trong tù, và chết trong tù, thời nào chúng ta cũng có thơ tù, có rất nhiều.
Tù nhân là sĩ phu Việt, quản ngục cũng là người Việt, Việt Nam phong phú thơ tù vì cứ một lần thay đổi cơ cấu cai trị, ngoài sự lệ thuộc Tầu và đô hộ Pháp, còn chính, và nhiều hơn hết, là dòng họ này diệt dòng họ kia, miền này kỳ thị phương khác, thơ tù phát sinh và phát triển từ nội chiến và quốc nạn phân ly. Hãnh diện thay!
Trong một ngày cuối tuần hồi giữa tháng 5.2012, tại Little Saigon ở miền Nam California có hai cuộc họp mặt văn nghệ, một do nhà thơ Thành Tôn mời vào buổi sáng, một mời vào buổi chiều. Cuộc họp mặt buổi sáng tổ chức tại Cafe Gypsy trong Trung tâm Thương mại Catinat để đón tiếp nhà văn Nguyễn Xuân Hòang từ San Jose xuống tham dự hai cuộc ra mắt sách tại Hội trường báo Người Việt, còn cuộc họp mặt buổi chiều tại một tự gia ở Garden Grove, để đón tiếp một nhà thơ từ Việt Nam qua Little Saigon của dân tị nạn.
Người viết bài này được mời trong cả hai dịp, song chỉ tham dự được vào buổi sáng. Nội dung hai cuộc họp mặt hắn có khác biệt. Trong buổi sáng, chúng tôi nói về nhiều chuyện, trong có “Văn chương Việt Nam trên mạng lưới internet,” và một chủ đề về “Chân dung Văn học Miền Nam,” nhất là khi Miền Nam được hiểu là miền Nam của giai đoạn 1954-1975. Mấy ngày hôm sau một vấn đề nổi lên trong đầu: đề tài thứ hai của tôi về các nhà văn nhà thơ Miền Nam chắc hẳn sẽ khó nói khi có mặt các cây bút từ trong nước ra, nhất là cây bút ấy đang cộng tác, ở vai trò cấp điều động kiểm soát an ninh một số báo chí lề phải, khác hẳn những người đang sống trong dòng nguyên thủy của nhân sinh.
Hãy đưa ra một ví dụ.
Trong văn thơ miền Nam, và trong văn thơ của các nạn nhân, có một thế loại (cả thể lẫn loại) đặc biệt chỉ có ở Việt Nam, vô cùng đặc sắc và phong phú, đó là “Thơ Trong Tù.” So với văn thơ thế giới nói chung, Việt Nam có thể không sút kém, vì tài năng sáng tạo, sự mẫn cảm của vốn người, cái tinh tế của nguồn gốc, quá khứ của nòi giống, kinh nghiệm của lịch sử kinh qua truyền thống sinh tồn, các nghệ sĩ sáng tạo Việt Nam sẽ không thua các nghệ sĩ thế giới. Mà có một thứ chắc chắn các nghệ sĩ Việt Nam vượt hẳn các nghệ sĩ thế giới: về tiềm năng quá khứ lẫn số lượng từ Thời đại cổ sơ, qua thời Trung đại và Cận đại hay Hiện đại, lúc nào chúng ta cũng đông đảo phong phú lượng và phẩm: Thơ-Trong-Tù và Thi sĩ trong Tù. Việt Nam có bao nhiêu danh sĩ, sĩ phu, anh hùng, liệt nữ làm thơ? Việt Nam có bao nhiêu nhân vật lịch sử làm thơ trong tù? Con số chính xác là bao nhiêu thì không ai có thể kiểm kê, song dõi theo các dấu mốc của thời đại, có thể tin chắc rằng chúng ta là vô địch hoàn cầu.
Thơ Trong Tù, xưa kia và cổ đại, kêu là Ngục Trung Thư đã là nhan đề liệt hạng của Lịch sử, đến nỗi có nhiều nhân vật lịch sử bị đi tù, nhưng không làm được thơ, đã phải lấy thơ tù của người khác rồi ghi tên mình lên đó? Cũng không phải là ít. Chẳng thế mà một ông giáo sư Hán Nôm đã viết một cuốn sách để trả lời những nghi vấn tương tự; ông còn xác định, chứ không hỏi nữa: “Ngục Trung Thư là do con người viết, không phải do cáo hồ viết.”
Tóm lại, để trả lời hai câu hỏi nêu trên, chúng ta cần viết một bộ sách lớn. Tạm thời chỉ xin trích dẫn một vài bài, và vài nét ghi chú về Thơ Trong Tù.
1. NGUYỄN HỮU HUÂN:
Muôn việc cho hay số ở trời
Cái thân chìm nổi biết là nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi
(Khi bị lưu đày, Văn Đàn Bảo Giám, III-22)
2.- PHAN CHÂU TRINH:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lấy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào xá sự con con.
(Đập đá Côn lôn)
3. NHƯỢNG TỔNG
Hàng vạn con người áo một màu
Khác nhau con số chẳng đều nhau
Xưa nay vẫn có câu bình đẳng
Bình đẳng là đây lọ phải cầu.
(Cảnh Nhà Tù)
Việc cả ai hay chuyển hóa đùa
Cơ đồ này đến thế này ru?
Thanh danh chạy được ba kỳ báo
Nhân vật trở ra một lũ tù
Hàn gắn đành mong ngày tái tạo
Bẽ bàng riêng để thẹn ngàn thu
Biết bao tâm huyết, bao công của
Nghĩ đến nguồn cơn lệ muốn khô.
(Hỏa Lò Hà Nội, 1929)
4. NỮ TÙ NHÂN CÔN ĐẢO
Nhắn bảo cùng ai đến chốn này
Đừng buồn đói khổ với chua cay
Hy sinh hai chữ ta ghi nhớ
Phấn đấu một lòng chớ chuyển lay
Ba thước roi mây un máu nóng
Một phen lao lý đúc gan dày
Bất bình còn đó còn cơ hội
Ngang dọc rồi đây cũng có ngày.
(1920)
5.- PHAN BỘI CHÂU
Nếu chết phăng đi cái cũng hay
Còn ta ta lại nghĩ sao đây?
Trời đâu có ngục chôn thần thánh
Đất há không đường ruổi gió mây?
Tát cạn bể Đông chìu tấc lưỡi
Phá tan rừng Bắc vẫy đôi tay
Anh em ai nấy xin thêm gắng
Công nghiệp ngàn thu há một ngày?
(Ngồi tù cảm tác)
6.- TRẦN CAO VÂN
Đứa nào muốn chết chết như chơi
Chết vị non sông chết vị trời
Chết thảo bao nài xương thịt nát
Chết ngay há ngại cổ đầu rơi
Chết trung tiếng để ngoài muôn dặm
Chết nghĩa danh lưu đến vạn đời
Chết được như vầy là hả lắm
Ta không sợ chết hỡi ai ơi.
(Chết chém)
Bài này Trần Cao Vân, anh hùng chống Pháp, làm trước khi bị hành hình. Bài thơ và thực tế có khác biệt. Ông biết là Pháp xử mình chết chém, nên làm câu thơ “Chết ngay há ngại cổ đầu rơi.” Có lẽ biết được bài thơ này, giặc Pháp (hay tay sai của giặc) đã làm khác đi, là khi xử ông ở Cống Chém, An Hòa, ngày 3 tháng 5 năm 1916, đã không chém ông ở cổ (cổ đầu rơi), mà tàn nhẫn hơn, chém ông ở ngang lưng.
Chúng ta có nên tổ chức một cuộc họp mặt văn nghệ khác lấy chủ đề là “Soạn thảo một thi tập Thơ Trong Tù Việt Nam?”