|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Tiến Sĩ Trần Bích San diễn thuyết trong buổi
“Trong Bàn Viết, Ngoài Cuộc Đời,” do Nhóm Văn Nghệ Sĩ Thế Hệ 2 tổ chức tại hội trường C.I.S.P. Maurice Ravel, Paris, Pháp, ngày 8 Tháng Sáu, 2003.
Nếu tính từ năm 1941 khi bộ sách “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” của học giả Dương Quảng Hàm xuất bản lần thứ nhất năm 1941 thì, 77 năm sau, chúng ta mới có bộ sách “Văn Học Việt Nam” (VHVN) của Tiến sĩ Trần Bích San - - Một công trình sưu tầm, nghiên cứu công phu, tương đối đầy đủ, với gần 1,200 trang, khổ lớn, bìa cứng.
Ở trang đầu, trước phần “Tựa”, họ Trần đã ghi lại hai phát biểu về sự quan trọng của văn học trong tiến trình sinh, tử một quốc gia, của hai nhân vật tên tuổi thế giới:
“Nếu văn học ngưng bặt trong một phút thì chẳng khác nào cái chết của cả một dân tộc”. (Mikhail Saltykov-Shchedirn - 1826-1889).
Và:
“Đôi khi chúng ta phải chào đón linh hồn quốc gia xưa cũ vốn đã xuyên qua những thế kỷ đen tối như là linh hồn của chính mình. Từ linh hồn này ta sẽ cảm nhận lại con đường cũ, được thấy nó một lần nữa, nhận ra những vết tích xa xưa đang chìm dần vào quên lãng, để đọc được một quá khứ thật gần, thật nhanh, rồi thấy rằng lịch sử chỉ là những dòng văn, những tấu khúc được viết đi viết lại mỏi mòn đầy hy vọng siêu thoát của những tâm hồn nhiều dằn vặt nhưng bất diệt”. (Friedrich Nietzsche -1844-1900).
Không ra ngoài quan điểm về văn học của người xưa, nhưng, TS Trần Bích San trong lời “Tựa” của mình, đã khai triển rộng hơn, vai trò hay nhiệm vụ của văn học, khởi từ cái nhìn dọc theo lộ trình lịch sử hình thành dân tộc. Ở tác phẩm VHVN thì đó là diễn tiến từng giai đoạn chuyển biến của lịch sử văn học Việt Nam.
Ông viết:
“Nhiệm vụ người cầm bút một đề tài xưa cũ mà vẫn còn như mới. Cũ, bởi từ khi có văn tự, có tác phẩm văn chương các tác gia từ nghìn xưa đã băn khoăn thao thức đi tìm ý nghĩa cho việc trước tác. Mới, vì bất kỳ người cầm bút nào có ý thức khi chọn nghiệp văn có lúc phải tự hỏi: ‘Viết để làm gì? Viết cho ai?’ Từ nghìn xưa tới ngàn sau chắc chắn những người làm văn học nghệ thuật phải suy tư về nhiệm vụ của mình (…)
“Trong khung cảnh xã hội đề cao khoa cử quan niệm ‘văn dĩ tải đạo’ chỉ đem lại cho văn học các tác phẩm về sử ký, địa lý, có tính cách sưu tập, ghi chép những dấu tích của thời đại các tác gia đang sống hoặc các giai đoạn trước đó. Văn gia coi đó như những vốn liếng quý báu của dân tộc cần được gìn giữ, truyền lại cho hậu thế. Phần còn lại là sáng tác văn thơ biểu thị nhu cầu tưởng tượng, giải tỏa thất tình, hay đi tìm ý nghĩa sự vật hoặc đời sống con người”. (VHVN, trang 13)
Kế tiếp, lấy dấu mốc 1865, khi 6 tỉnh Nam Kỳ mất hẳn vào tay người Pháp, mở đầu thời kỳ VN bị Pháp đô hộ, họ Trần ghi nhận, đó là thời điểm đánh dấu những chuyển động lớn của sinh hoạt văn học Việt Nam. Ông chỉ danh giai đoạn này của lịch sử văn học VN là:
“Khởi đầu cho những sáng tác ‘cổ động lòng yêu nước, đánh đuổi người Pháp giành lại độc lập cho quốc gia’.”
Vẫn theo ghi nhận của TS Trần Bích San thì bước qua đầu thế kỷ thứ 20, sinh hoạt văn học Việt Nam lại bước vào một giai đoạn mới. Người cầm bút ở giai đoạn này, quan niệm sứ mạng hay nhiệm vụ của họ, theo một hướng khác.
Tác giả VHVN kể, những biến chuyển ấy, thoạt tiên, được đánh dấu bằng sự xuất hiện của tờ “Đông Dương Tạp Chí”. Tờ báo này chủ trương:
“… Dùng cơn gió duy tân lay động, hối thúc xã hội cổ truyền Việt Nam lột xác để theo kịp sự tiến bộ của Tây phương.” (VHNV, trang 14)
Tiêu biểu cho biến chuyển ấy, TS Trần Bích San đã đề cập tới vai trò của “Nam Phong Tạp Chí”. Họ Trần cho rằng, Nam Phong Tạp Chí, có xu hướng quay về quá khứ, khai thác những giá trị cổ học với mục đích bảo tồn quốc học, quốc túy, phát huy cái vốn tinh thần sẵn có; đồng thời cổ súy, nuôi dưỡng, phát triển, xây dựng nền quốc học để giữ bản sắc riêng, không bị tha hóa.
Về người khai sáng tạp chí Nam Phong, học giả Phạm Quỳnh, người từng để lại cho đời sau, một phát biểu đầy ý nghĩa: “Truyện Kiều còn nước ta còn”; được tác giả VHVN ghi nhận thêm rằng:
“Phạm Quỳnh từng tuyên bố nhiều lần tất cả công trình viết lách của ông trên Nam Phong nhằm vào công cuộc hướng dẫn quốc dân bồi đắp tinh thần, thực hành chủ nghĩa quốc dân bồi đắp văn hóa. Ông dịch thuật tư tưởng Tây phương để làm vật liệu cần thiết trong việc xây dựng nền văn hóa quốc gia thêm phong phú”. (VHVN trang 14)
TS Trần Bích San cũng ghi nhận vắn tắt vai trò của tờ “Tiếng Dân”, của nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng - - Người chủ trương dùng đạo lý, nền nếp xưa, lý tưởng Khổng Mạnh không sợ, không tham, không hèn.
Chủ nhiệm “Tiếng Dân” khẳng định, những giá trị cũ không lạc hậu, lỗi thời nếu phát huy đúng chỗ. Ông được nhà thơ Tản Đà tiếp tay với thuyết “Thiên Lương” và, học giả Trần Trọng Kim với bộ “Nho Giáo”. (VHNV, trang 15)
Dõi theo tiến trình sinh động của dòng chảy văn học Việt, khi bước sâu vào thế kỷ thứ 20 thì, người được TS Trần Bích San chọn làm nhân vật tiêu biểu cho thời kỳ ấy, là nhà văn Lê Văn Trương. (Mặc dù về phương diện văn chương, họ Lê không được dư luận đánh giá cao lắm). Tác giả viết:
“Lê Văn Trương đưa ra mẫu người hùng với triết lý sức mạnh. Trong 12 năm, hơn 180 tác phẩm tràn ngập, ngự trị xã hội Việt Nam từ 1934 đến 1945. Các sáng tác của ông mang nguồn sinh lực, sức sống mới tạo được ảnh hưởng, đáp ứng được truyền thống trọng đạo lý của dân tộc Việt đang bị làn sóng vật chất, chủ nghĩa cá nhân Tây phương xô đẩy”. (VHVN trang 15)
Về giai đoạn mà văn học Việt Nam quen gọi là giai đoạn “văn chương tiền chiến”, tác giả Trần Bích San, đặc biệt chú ý và, ghi công nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Ông tóm tắt chủ trương của nhóm này là:
“Cổ võ theo mới, cấp tiến, đả phá tư tưởng chán đời, hủ tục, thói rởm chuộng hư danh, thay đổi đời sống cơ cực của dân quê…”
Tác giả VHVN nhắc lại một câu trả lời báo chí của nhà văn Nhất Linh như sau:
Nhất Linh, người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn trả lời Nguyễn Ngu Í lý do tại sao ông đỗ đầu vào trường Mỹ Thuật Đông Dương mà lại bỏ để mang giá cọ theo cụ Tác (họa sư Pháp Victor Tardieu) (01) về nhà quê…
Giải thích cho chọn lựa bất ngờ kia, tác giả “Đoạn Tuyệt” nói:
“Tôi thấy đời sống dân quê cơ cực tối tăm quá, cần phải làm gì cho lớp đồng bào ấy mà giá cọ không giúp được gì thì phải bỏ qua một bên”. (VHVN, trang 15)
Nhà văn Thạch Lam, một thành viên nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn, tuy không được coi là lý thuyết gia của nhóm (như nhà văn Hoàng Đạo); nhưng, theo tư liệu của TS Trần Bích San thì Thạch Lam, tác giả “Gió đầu mùa” cũng đã nhấn mạnh tới nhiệm vụ của nhà văn không phải là nhiệm vụ dạy đời hay giảng luân lý. Mà thiên chức của nhà văn là phải diễn tả sự thật:
“…Và chỉ có những cảm giác thật mới có tác động và vang động sâu xa trong tâm hồn độc giả. Thái độ giả dối, trốn tránh sự thật đã sinh ra biết bao thương tâm trong lòng người, trong gia đình và trong xã hội”. (VHVN, trang 15).
Nhiều phần khuynh hướng hay chủ trương cải tạo nhân sinh của các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã vô tình (?) khơi lại cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật”, khai diễn trước đó đã lâu, ở Phương Tây.
Về sự kiện từng gây chia rẽ lớn trong giới làm văn học, nghệ thuật ở Việt Nam, nhà văn Trần Bích San ghi rằng:
“Thời tiền chiến có cuộc tranh luận đặc biệt kéo dài tới 4 năm, lôi cuốn 15 người cầm bút về vấn đề sáng tác phục vụ cho cái gì, nghệ thuật hay nhân sinh?” (VHVN, trang 16)
Để hoàn tất một tác phẩm nghiên cứu, phê bình, nhất là ở lãnh vực văn học, dọc theo chiều dài thành hình qua nhiều giai đoạn từ thời chưa có chữ viết, tới những biến thiên của ngôn ngữ, phải nói ngay rằng, đó là một hành trình đầy lao tâm, khổ trí - - Cả về thời gian, lẫn tiền bạc. Nhất là khi tác phẩm ấy lại có độ dầy trên một ngàn trang, như bộ “Văn Học Việt Nam” (VHVN) của TS Trần Bích San.
Tiến sĩ Trần Bích San trước lò rèn của người nô lệ
da đen thế kỷ 19 trong Oak Plantation, Louisiana, Sept. 25, 2018 (Hình: Trần Bích San cung cấp)
Ở “Phút nói thật” với bằng hữu, họ Trần tâm sự rằng: Kể từ lúc xác định đề tài của một chương (không kể thời gian khó khăn trong việc truy tìm tài liệu cần thiết), việc đọc các sách tham khảo mất nhiều thì giờ nhất. Việc cân nhắc, so sánh, chọn lựa các dữ kiện, sắp xếp bố cục; phần viết nhẹ hơn, mất khoảng từ 1, 2 tháng cho 1 chương (2). Ông nói, để hoàn tất tác phẩm tổng cộng mất khoảng 20 năm biên soạn, chưa kể 3 năm sửa chữa, và bổ túc.
Tưởng cũng nên nói ở đây là, việc sưu tầm tài liệu tham khảo khá vất vả, tốn rất nhiều thì giờ. Nếu không có đam mê và kiên nhẫn đủ, khó ai có thể hoàn thiện một công trình lớn như vậy. Họ Trần kể, riêng việc tìm những sách cũ quý hiếm nhờ người quen mua giùm ở các nơi bán sách chui (bán lậu) khắp 3 miền Nam Trung Bắc đã cần thời gian liên tục nhiều năm và, phí tổn mua số sách ấy, cũng đã lên tới hơn $20,000 Mỹ kim.
Bước vào giai đoạn thực hiện thì vấn đề đầu tiên đặt ra cho người biên soạn là chọn phương pháp, hay quan niệm thích hợp với chủ trương của tác giả đó. Nhà văn Trần Bích San giải thích:
Tác phẩm Văn Học Việt Nam của ông, “không phải là một quyển phê bình văn học” mà, là bộ sách viết về lịch sử văn học Việt Nam. Nên ông đã sử dụng phương pháp “thể loại văn học” để biên soạn.
Rõ hơn, ông nói, văn học sử là ngành nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của nền văn học. Đối tượng của lịch sử văn học là những hiện tượng văn học xác định và cụ thể. Đó là cái đích cần được khám phá để đưa đến việc trình bày trung thực toàn diện bộ mặt của văn học.
Cụ thể, TS Trần Bích San nêu thí dụ:
“Soạn giả Nguyễn Đổng Chi với quyển “Việt Nam Cổ Văn Học Sử” là tác gia đầu tiên sử dụng quan niệm này, tuy ông chưa có lý thuyết rõ ràng. Quan niệm “thể loại văn học” khắc phục được các nhược điểm của các quan niệm biên soạn khác, bảo đảm được tính toàn vẹn, toàn diện của bộ mặt lịch sử văn học. Có thể nói, từ trước đến nay, đa số các tác gia đều dùng phương pháp “khuynh hướng tư tưởng” để biên soạn văn học sử. Quan niệm này đặt trên nền tảng của sự phát triển các khuynh hướng tư tưởng trong lịch trình tiến hóa của lịch sử văn học. Ông Dương Quảng Hàm là người đầu tiên, chọn phương pháp ấy. Sau này, được nhiều tác gia ở Miền Nam noi theo".
Còn về phương pháp “Văn Tự”, thì họ Trần cho rằng:
“Lịch sử văn học là lịch sử của các tác phẩm bằng tiếng Việt được Nguyễn Sĩ Đạo khởi xướng từ năm 1941. Rồi được các tác giả ở miền Nam phát triển như Phạm Văn Diêu, Thanh Lãng, Thạch Trung Giả, Hà Như Chi, ở Miền Bắc là nhóm Lê Quý Đôn, noi theo”.
Sau đó, đứng trước một rừng tài liệu Việt ngữ cũng như ngoại quốc có được, để tránh lỗi lầm, họ Trần đã rất cực nhọc trong việc so sánh, đối chiếu để tránh việc sử dụng tùy tiện, những nguồn không đáng tin cậy, tác giả VHVN nhấn mạnh:
“Việc đối chiếu tài liệu trong quyển Văn Học Việt Nam chiếm khá nhiều thời giờ cân nhắc, trước khi quyết định. Phải so sánh nhiều tài liệu khác nhau, cần xem tài liệu nào khả tín nhất. Tất nhiên là phải so sánh giữa những tài liệu có liên hệ cùng một vấn đề.”
Ông nêu thí dụ, sau khi vua Quang Trung băng hà, thân phận Ngọc Hân Công chúa ra sao? (Bà là tác gia chữ Nôm: Ai Tư Vãn và Văn Tế Vua Quang Trung). Về số phận của Ngọc Hân Công Chúa, theo ghi nhận của TS Trần Bích san thì có tới 3 giả thuyết khác nhau:
1- Có thuyết cho rằng sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long nạp bà làm thứ phi.
2- Thuyết khác nói rằng khi nhà Tây Sơn bị diệt bà cùng 2 con giả dạng dân đi buôn trốn về miền quê ở Quảng Ngãi. Ít lâu sau tung tích bại lộ, bà bị bắt đem về Thuận Hóa gia hình (theo Tam Ban Triều Điễn 三 頒 朝 殄).
3- Một thuyết nữa lại cho rằng bà đã mất trước khi nhà Tây Sơn bị diệt.
Tác giả VHVN kết luận:
“Khảo sát các nguồn, tài liệu của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (Quốc Văn Đời Tây Sơn) là khả tín, chính xác nhất vì trong các bài văn tế bằng chữ Nôm của Phan Huy Ích có bài tế Vũ Hoàng Hậu (tức miếu hiệu của Lê Ngọc Hân) từ trần vào năm Kỷ Mùi 1799 đời vua Cảnh Thịnh trước khi Gia Long thống nhất đất nước (trong Dụ Am Văn Tập có 5 bài văn tế của Phan Huy Ích).”
Về tiểu sử của một nhân vật gần hơn với chúng ta là học giả Phạm Quỳnh cũng vậy!
TS Trần Bích San nói, riêng năm sinh của học giả này, cũng đã có khá nhiều tài liệu với những con số khác nhau. Có người nói, ông sinh năm 1890. Tuy nhiên, cũng có tài liệu ghi Phạm Quỳnh sinh năm 1891 hay 1892… Nhưng theo tác giả VHVN thì, ông chọn năm sinh của học giả Phạm Quỳnh là năm 1892, vì:
“Con gái họ Phạm là bà Phạm Thị Hoàn định cư tại Paris, Pháp, xác nhận thân phụ bà tuổi Thìn (Theo “Viet Thought Institute and Literary Research, tập San Tư Tưởng Việt số 1, Viet Thought / La Pensée Vietnamienne”, Hoa Kỳ, 2003)…”
Mặt khác, TS Trần Bích San cũng cho thấy bản chất nghiêm túc của một học giả, khi ông phát biểu:
“Trong lãnh vực biên khảo văn học không tác gia nào hoàn toàn tránh được thiếu sót, sai lầm. Một nhà văn học sử khó có thể đơn độc đính chính tất cả sai lầm, đánh tan các nghi vấn trong suốt quá trình diễn tiến của văn học Việt Nam, từ chữ Nho, chữ Nôm, đến chữ Quốc Ngữ. Ý thức điều đó nên cần phải có tài liệu dồi dào, thời gian cần thiết để so sánh cân nhắc những dữ kiện văn học khác nhau. Trong việc đối chiếu tài liệu thì yếu tố căn bản gồm: Dùng một tài liệu làm chuẩn để so sánh, thứ tự ưu tiên, mức độ khả tín của nguồn, sự chính xác của văn bản…”
Đề cập tới tác giả bộ sách đầu tiên viết về văn học Việt Nam, cuốn “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” mà tác giả Dương Quảng Hàm đã sử dụng quan niệm ‘khuynh hướng tư tưởng’ trước nhất, tuy còn rất mờ nhạt. Sách viết về văn học sử trước năm 1975 ở miền Nam hầu như rập khuôn theo quan niệm của Dương Quảng Hàm. Nhưng với mức độ đậm nhạt khác nhau.
Trong số đó có Nghiêm Toản và các tác giả khác như Bùi Hữu Sủng, Nguyễn Tường Phượng, Lê Kim Ngân, Võ Thu Tịnh, Nguyễn Tường Minh, Phạm Thế Ngũ, Lê Văn Siêu.
Sở dĩ có hiện tượng này, theo nhà văn Trần Bích San là vì quyển ‘Việt Nam Văn Học Sử Yếu’ của Dương Quảng Hàm được Bộ Quốc Gia Giáo Dục của người Quốc Gia chọn làm sách giáo khoa bậc trung học ngay từ khi chương trình Giáo Dục Cho Người Bản Xứ (Enseignement Franco-Indigène), thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt, của Pháp ở Đông Dương công nhận. Sau đó, bộ Quốc Gia Giáo Dục của các chính quyền quốc gia cũng chính thức dùng 2 quyển ‘Việt Nam Văn Học Sử Yếu’ và ‘Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển’ làm sách giáo khoa bậc trung học. Do đấy, các tác giả khác đã soạn theo mẫu mực tương tự như ông Dương Quảng Hàm để đáp ứng nhu cầu giáo dục của miền Nam Việt Nam thời đó.
Về cái chết của học giả giả Dương Quảng Hàm, TS Trần Bích San cho biết, họ Dương được ghi nhận là bị mất tích trên đường tản cư từ Hà Nội về quê ở Hưng Yên, năm 1946.
Như đã trình bày ở kỳ trước, khi đề cập tới phương pháp soạn thảo bộ “Văn Học Việt Nam” (VHVN), TS Trần Bích San, soạn giả của bộ sách này, đã phân biệt hai quan niệm biên soạn khác nhau.
- Thứ nhất: Quan niệm soạn thảo theo “Khuynh hướng tư tưởng”, mà người cầm cờ đầu là học giả Dương Quảng Hàm, qua hai tác phẩm tiêu biểu “Văn Học Việt Nam Sử Yếu” và “Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển”.
- Thứ nhì: Quan niệm theo khuynh hướng “Thể loại văn học”.
Vì thế, Trần Bích San đã nhấn mạnh rằng bộ sách VHVN của ông không phải là bộ sách thuộc về thể loại phê bình văn học.
Vẫn khởi tự “phút nói thật” với bằng hữu, TS Trần Bích San giải thích thêm về quan niệm phê bình văn học theo “Khuynh hướng tư tưởng,” với ngọn cờ đầu của khuynh hướng này là tiền bối Dương Quảng Hàm, họ Trần cho biết:
- Vì Nội hàm của quan niệm “Khuynh hướng tư tưởng”, tự thân vốn cho nó một giá trị xuyên suốt, vĩnh cửu… Nên chúng ta đã có những tác phẩm như “Tuyển Tập Thi Văn Ái Quốc,” “Tuyển Tập Văn Chương Đối Kháng” v.v… Do đấy, những tác phẩm đó đã dẫn tới hệ quả: “Làm mất tính chất toàn toàn, toàn diện của vóc dáng lịch sử văn học”.
- Trong khi phương pháp soạn thảo bộ VHVN của họ Trần lại y cứ trên quan niệm “Thể loại văn học” hoàn toàn khác biệt. Nên, khi trả lời câu hỏi về bộ sách của học giả Dương Quảng Hàm có giúp ích ít, nhiều cho Trần Bích San, khi khởi công biên soạn bộ VHVN không (?), thì ông nói:
"Bộ sách của Dương tiền bối giản lược và ngưng ở thời kỳ năm 1940, nhưng được soạn thảo rất công phu, cẩn trọng, tài liệu chính xác…"
Và, họ Trần đã sử dụng những đặc điểm sau đây từ bộ “Văn Học Sử Yếu” (VNVHSY) của Dương Quảng Hàm, khi ông soạn thảo bộ “Văn Học Việt Nam” (VHVN), như:
1- Những dữ kiện trong VNVHSY được dùng làm mẫu mực để so sánh với những dữ kiện khác, khi có nhiều nguồn khác nhau, cần phải được cân nhắc, trước khi quyết định.
2- Một số “Bài đọc thêm” trong VNVHSY khi được dùng trong VHVN đều được ghi rõ nguồn gốc tác giả là Dương Quảng Hàm.
3- Bộ sách VNVH của Trần Bích San căn cứ vào “Các tác phẩm được kê cứu” nằm ở mỗi cuối chương trong bộ VNVHSY, cũng được họ Trần tìm đọc khi soạn thảo VHVN.
- Đề cập tới một số tên tuổi các nhà nghiên cứu, phê bình văn học từ thời Tiền chiến như “Hoài Thanh – Hoài Chân”, Vũ Ngọc Phan và những tác giả ở lãnh vực này, thuộc 20 năm văn học miền Nam, như Phạm Thế Ngũ, Phan Canh - Nguyễn Tấn Long v.v… TS Trần Bích San nói, theo ông, tác giả Phạm Thế Ngũ không phải là nhà phê bình văn học, ông ấy là nhà văn học sử. Trong khi sách của Phan Canh - Nguyễn Tấn Long vẫn theo họ Trần thì không thuộc lãnh vực phê bình văn học, hoặc văn học sử…
- Đề cập tới những tác giả thời Tiền chiến, thuộc bộ môn phê bình văn học, học giả Trần Bích San cho biết: Lịch sử phê bình văn học VN bắt đầu từ năm 1913 trên tờ Đông Dương Tạp Chí với mục “Phê Bình Sách Mới”. Sau đó, năm 1917 trên Nam Phong Tạp Chí với những bài phê bình theo khuynh hướng mới của Tây phương; mà Phạm Quỳnh là người tiên phong ở lãnh vực này.
Ông nói: “Ngay từ những số đầu, Nam Phong tạp chí đã có bài phê ‘Khối Tình Con’ của Tản Đà, ‘Một Tấm Lòng’ của Đoàn Như Khuê, mà Phạm Quỳnh là tác giả.
Với tựa đề bài viết “Mộng Hay Mị,” họ Phạm đã đả kích thứ văn chương “đầu Ngô mình Sở”, không lợi ích gì cho “Thế đạo nhân tâm”… Đưa tới việc Tản Đà dứt tình với Nam Phong tạp chí. Đồng thời bài phê bình vừa kể, cũng đem lại nhiều bất mãn ngay với các văn hữu của Phạm Quỳnh.
“Do đó, tuy biên khảo rất gần gũi với bộ môn phê bình nhưng vì muốn tránh việc gây ác cảm trong văn giới nên nhiều học giả đã ngần ngại không muốn bước sang lãnh vực phê bình” TS Trần Bích San nhấn mạnh.
Về hai tác phẩm phê bình văn học xuất hiện thời Tiền chiến là bộ “Nhà Văn Hiện Đại” của Vũ Ngọc Phan, và “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, theo họ Trần là đáng kể:
“Hai tác phẩm này có công giới thiệu khá đầy đủ các tác giả trong văn giới thời đó”, TS Trần Bích San, ghi nhận.
“Nhưng xét về phương diện phê bình thì hai bộ sách này chỉ có giá trị tương đối; dù rằng cho tới nay chưa có tác phẩm nào viết về thời kỳ này có thể thay thế.”
Vẫn theo học giả Trần Bích San thì hai tác phẩm trên, là 2 bản phác họa rộng lớn và bao quát bức tranh văn học VN từ khi có chữ quốc ngữ tới đầu thập niên 1940. Đây là hai công trình quý giá cho những nhà nghiên cứu văn học, nhất là cho ngành phê bình văn học Việt Nam.
Về hai tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân, vẫn được ghi nhận là đồng tác giả của tác phẩm “Thi Nhân Việt Nam” thì Trần Bích San cho rằng:
- Hoài Chân vốn không có thật. Tên gọi này do chính Hoài Thanh đặt ra.
Nhận xét về nội dung của tác phẩm “Thi Nhân Việt Nam,” họ Trần kết luận:
Hoài Thanh đã phê bình bốn mươi nhà thơ ở thời đó, “bằng cảm quan”. Hoài Thanh đã chỉ chú trọng đến thi cảm, âm điệu, hồn thơ của các thi sĩ. Vì thế, ông đã không phân tích, không giải thích. Hoài Thanh phê bình thơ bằng trực giác, sự nhạy cảm và, bằng khiếu thẩm mỹ thưởng ngoạn của ông. Hoài Thanh chủ trương chất thơ phải được “cảm thấy một cách hồn nhiên, phân tích hay giảng giải thơ sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng”.
“Hoài Thanh chủ trương chỉ bình mà không phê. Ông viết về những cái hay cái đẹp, chỉ khen không chê cái dở. Đây là điểm thiếu sót quan trọng trong việc phê bình bởi lẽ ngay cả các danh tác thì tác phẩm nào cũng có những điểm thiếu nghệ thuật đáng được nhà phê bình đề cập tới”. TS Trần Bích San nhận định.
Về tác phẩm “Nhà Văn Hiện Đại” của Vũ Ngọc Phan, theo thẩm định của tác giả VHVN thì:
“Xét về phương diện văn chương và kỹ thuật làm văn, ông không sử dụng những yếu tố trong việc phê bình như tâm lý, tiểu sử, huyết thống, hoàn cảnh xã hội, bối cảnh lịch sử, thời đại nhà văn đã sống. Phương pháp phê bình của Vũ Ngọc Phan theo lối cổ điển có tính cách thuần túy kỹ thuật, chú trọng vào việc phê phán câu văn viết đúng hay sai, sự quan sát tinh vi hay sơ sài hời hợt, cốt truyện hay hoặc dở, lối mô tả, tự sự, đối thoại trung thực hay giả tạo, cách cấu kết khéo léo hay vụng về. Ông dùng những lời phê phán của các nhà phê bình nổi tiếng Tây phương để áp dụng vào những nhận xét của mình. Với lối phê bình này, tác giả bộ ‘Nhà Văn Hiện Đại’ đã đứng ở vị trí người thưởng ngoạn thuần túy trình bày những nhận xét nặng tính kỹ thuật của mình, đối với tác phẩm mà không có chủ đích đi tìm hiểu giá trị khách quan của tác phẩm”.
“Tóm lại”, họ Trần viết:
“Vũ Ngọc Phan phê bình tác phẩm theo quy tắc ngữ văn hơn là người đi khám phá các công trình sáng tạo tìm cái đẹp. Tuy vậy, ông là nhà phê bình có ý thức vững chắc, trung thành với nhiệm vụ cùng phương pháp cổ điển trong việc phê bình các sáng tác văn học đúng theo tiêu chuẩn của ông.”
------------
Chú thích.
(1) Một trong những ưu điểm của bộ sách VHVN của TS Trần Bích San là: Không chỉ các tác giả Việt Nam được đề cập trong bộ sách mà, bất cứ một nhân vật ngoại quốc nào, một khi được nhắc tới, cũng đều có hình ảnh, tiểu sử tóm tắt, giúp người đọc có ý niệm cụ thể hơn về những nhân vật ấy.
(2) Bộ VHVN của Trần Bích San có tất cả 31 chương, không kể phụ lục.