|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà văn Trà Lũ
Tôi quen nhà văn Trà Lũ đâu chừng trên dưới hai mươi năm. Trong khoảng thời gian đó tôi đã nhận được từ nhà văn, tất cả là mười cuốn sách quí được gởi tặng. Lẽ ra tôi phải gọi nhà văn Trà Lũ bằng thầy, bỡi vì tôi xuất thân từ trường Sư Phạm mà nhà văn Trà Lũ đã từng là Giáo Sư dạy ở đó. Lần đầu tiên khi gặp nhau, tôi gọi nhà văn Trà Lũ là thầy với tất cả những gì kính trọng, quí mến. Nhưng mà nhà văn đã không cho tôi xưng hô như vậy và chỉ muốn tôi gọi bằng anh trong tình văn hữu -cung kính bất như tùng mạng, tôi bắt buộc phải nghe theo, từ đó về sau tôi thường gọi nhà văn Trà Lũ bằng anh, tiếng anh thân kính, tuy bên ngoài là anh mà bên trong vẫn là thầy.
Dầu tôi không được may mắn học trực tiếp với thầy Trần Trung Lương ở trường nhưng bù lại được học hỏi rất nhiều những gì thầy đã viết ra trong sách. Hôm nay nhân ngày thầy Trà Lũ ra mắt cuốn thứ mười, tôi xin phép được khoe với quí vị những nét tài hoa của nhà văn Trà Lũ. Mà chắc là tôi không cách gì nói hết được đâu, bởi vì Trà Lũ viết hay lắm. Quen biết nhà văn Trà Lũ một khoản thời gian khá dài, con người, tánh tình và nếp sinh hoạt của ông, tôi biết được chút ít. Đọc văn thì biết người. Mà đã biết người rồi, thì thấy văn cũng giống y như vậy. Có thể coi Trà Lũ như một người cực kỳ thông minh, dáng vẻ điềm đạm, khéo giao thiệp, dễ hoà mình với mọi người, nhứt là tánh tình giản dị, tươi vui, yêu đời đầy nét duyên dáng, hóm hỉnh. Ông đến với xứ Canada nầy như cá gặp nước vậy. Ông đối với đời đẹp quá và đời đối với ông cũng đẹp nữa.
Cứ nhìn ông giao tiếp với bạn thì biết, cụ Chánh, cụ B.95, ông ODP, ông H.O, ông Từ Hòe, chị ba Biên Hòa, anh John, cha Paolo… có nam, có bắc, có đông, có tây, có liền ông và liền bà, có già có trẻ. Người nào cũng hiền lành tử tế, đối xử nhau tương thân, tương kính, thuận thảo, có món ngon vật lạ cùng nhau thưởng thức chia xẻ, có chuyện gì vui cùng kể cho nhau nghe, có chuyện gì lạ cũng báo cho nhau biết,… rồi xúm nhau cười ào ào. Đời thiệt là vui và đáng sống hết sức. Chưa bao giờ tôi thấy các nhân vật Trà Lũ cau có, quạu quọ, giận hờn, tranh chấp hơn thua, cãi vã, dèm pha, ganh tỵ, chữi rủa nhau, bơi móc nói xấu nhau…
Mười cuốn sách đã phát hành, nhan đề đều có chữ ‘Đất’ như vậy là tác giả có dụng ý khi đặt tên tác phẩm. Nhà văn Trà Lũ muốn gởi gấm điều gì qua các đứa con tinh thần của mình? Rõ lắm, tác giả hết lời ca tụng đất nước Canada rộng lớn vĩ đại, giàu có và thanh bình. Canada là vùng đất tác giả đã chọn lựa khi định cư, được coi như là quê hương thứ hai. Tất cả các quyển được viết theo cùng một khí văn nhất quán -hơi văn đi một mạch, mười cuốn như một, một cuốn như mười. Lối hành văn lưu loát, nhẹ nhàng, tự nhiên, lôi cuốn, ý nhị, câu chuyện thoắt biến thoắt hiện, tài tình. Tác giả viết tự nhiên như là đang kể chuyện trực tiếp cho độc giả, là chúng ta nghe. Nghe hoài nhưng không chán, trái lại còn say mê theo dõi nữa. Khó có ai cầm quyển truyện trên tay rồi, lại bỏ xuống cho được. Câu chuyện liên tục, nồng ấm, hấp dẫn… quá sức lẽ mình! Ông thường tường thuật lại những buổi hợp mặt thân hữu vào những ngày lễ hội, ngày Tết, ngày kỷ niệm,… cùng nhau bàn luận chuyện đông tây kim cổ, chuyện nọ chuyện kia, những bài thơ, bài báo, sách vở, đôi khi tiếu lâm nữa, khiến buổi họp mặt sôi nổi, hào hứng, xen vào đó vài chuyện tiếu lâm lạt hay mặn… có khi mặn tới quéo lưỡi, khiến các bà đỏ mặt mà vui.
Nội dung câu chuyện lúc nào nhà văn Trà Lũ cũng ca ngợi quê hương mới là đất Canada, hăng say, nồng nhiệt, không hề rụt rè, không đắn đo so bì, Canada là số một, Canada là thiên đường. Ban đầu tên các tác phẩm được đặt là Miền Đất Hạnh Phúc, rồi Đất Mới, Đất Hứa, Đất Thiên Đàng, Đất Yêu Thương, Đất Lạnh Tình Nồng, Đất Quê Ngoại, Đất Anh Em và cho mãi tới cuốn thứ mười, cuối cùng thì Trà Lũ mới dám gọi Canada là Đất Nhà. Tại sao phải tới cuốn thứ mười tác giả mới gọi như vậy? Cái lý do nào mà Trà Lũ đi loanh quanh lẫn quẫn, gọi Canada là đất nầy đất kia, đi lòng vòng mãi ở ngoại ô mà không dám tiến thẳng vào thủ đô, không dám ôm Canada vào lòng mà hôn hít nó, gọi là đất của mình, tuy tác giả đã có quốc tịch Canadian đã trên 30 năm rồi?
Rất là dễ hiểu, bỡi vì trong đầu tác giả, còn đầy ắp một đất nước Việt Nam, trong trái tim tác giả còn đập nhịp tư tuởng, tình cảm Việt Nam thiệt là lớn, làm sao một sớm một chiều mà quên phắt cho được. Quê hương chỉ có hai chữ đơn giản vậy thôi, sao lại khiến người ta khắc khoải. Trà Lũ đã viết : -nếu định nghiã quê hương là chùm khế ngọt, là con diều biếc, là con đò nhỏ, thì ở hải ngoại nầy chúng ta không có quê hương sao? Cụ Chánh tiên chỉ làng đáp ngay -có quê hương chứ, có nhiều chứ. Chúng ta đi mang theo quê hương mà. Bao lâu chúng ta và con cháu chúng ta còn nói tiếng Việt, ngâm thơ Nguyễn Du, đọc thơ Nguyễn Công Trứ là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Bao lâu chúng ta còn ăn Tết nguyên đán, còn cúng giỗ tổ tiên, còn tri ân quốc tổ, là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Bao lâu chúng ta còn nấu phở, chiên chả giò, ăn nước mắm là bấy lâu chúng ta còn có quê hương.
Nhà văn Trà Lũ đã bổ túc cái nhìn thiếu sót dùm cho tác giả chùm khế ngọt Đỗ Trung Quân, quê hương không phải chỉ là dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương với núi non, cây cỏ, hoa thảo, sông nước, mà quê hương còn bao gồm cả con người Việt Nam với tất cả những nét văn hóa đặc thù từ cách sống, cách ăn, mặc, đi đứng cùng phong tục, tập quán, văn học, nghệ thuật,… và các hình thái sinh hoạt tinh thần nữa.
Các bài viết trong tác phẩm là những chứng minh hùng hồn của Trà Lũ về lòng thương nhớ quê hương đó. Không phải tự nhiên rảnh rổi mà viết nhiều tới mười cuốn như vậy. Ông muốn chứng minh cho chúng ta, những độc giả quen thuộc, hình ảnh của quê hương yêu dấu khi dứt áo bỏ nước ra đi, chúng ta đã mang theo được và suốt đời không bao giờ quên, qua các món ăn, chả giò, phở, bánh cuốn, nem nướng, chả nướng, thịt bò, thịt heo, thịt chó,… đến chiếc áo dài tha thướt, chiếc nón lá bài thơ, cái yếm phụ nữ thơ mộng, chiếc váy cùng cái quần củn cởn… Đi du lịch Alaska hai tuần, nhà văn Trà Lũ ăn uống toàn món ngon vật lạ, cuối cùng rồi cũng nhớ tới nước mắm, thèm thuồng và ước ao, nhắc nhở cho những người đi sau đừng quên mang theo. Ôi, nước mắm là món ăn thuần túy quê hương, nước mắm là Việt Nam, dù ở góc biển chưn trời, làm sao mà quên cho được.
Nhà văn Trà Lũ cũng đã bổ túc cho chúng ta nhiều lắm, ngoài tình yêu quê hương tha thiết, chúng ta còn học hỏi nhiều qua cái kiến thức rộng rãi của ông. Ông đã có lần nhắc tới cha Đỗ Minh Vọng, khiến tôi xao xuyến. Đó là một vị giáo sư mà tôi kính mến. Tôi đã may mắn được học với cha mấy năm tròn. Cha người Pháp tên Cras, to lớn con, tánh tình hiền lành dễ thương, đi dạy thường mặc áo chùng thâm và lái chiếc xe Lambretta củ. Kiến thức của cha rất rộng, nhờ cha giảng dạy cấu trúc câu văn và tiếng Việt Nam mình so với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà tôi hiểu thêm tiếng Việt, qua hai môn Văn Chương Tỉ Giảo (Littérature Comparée) và Ngữ Nguyên Học (Étymologie). Không biết phải cần bao nhiêu năm học hỏi nữa, bao nhiêu công sức nữa, tôi, một người Việt Nam rặt ròng, mới hiểu biết được ngôn ngữ Việt Nam như cha đã hiểu biết !
Cha Cras giỏi tiếng Việt bao nhiêu thì nhà văn Trà Lũ cũng đâu có thua kém. Khi bàn về cái váy của dân tộc, chúng ta thấy nhà văn cực kỳ thông minh và bén nhạy, chúng ta cùng cười xòa khi Trà Lũ nhắc tới bài thơ Vũng Lội Làng Ngang của Nguyễn Khuyến. Bài thơ đó như vầy:
Đầu làng Ngang có một chỗ lội
Có đền ông Cuội cao vòi vọi
Đàn bà đến đó vén quần lên,
Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối,
Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười,
Cái gì trăng trắng như con cúi
Thời cụ Nguyễn Khuyến, đàn bà Bắc Kỳ vẫn còn mặc váy. Rõ ràng cụ bà mặc váy. Chữ vén quần trong bài thơ tôi ngờ là nhà in chép sai. Tiếng VN nói vén váy chứ không nói vén quần bao giờ. Lại nữa, theo mạch văn, nếu mặc quần mà xắn lên thì Ông Cuội chỉ thấy bắp đùi là cùng, không thể thấy con cúi được, do đó câu trên phải là “đàn bà đến đó vén váy lên” Ôi chao, cái váy làm phiền Ông Cuội và cụ Nguyễn Khuyến quá.
Nhận xét trên của nhà văn Trà Lũ thật là tinh tế, sự thật là -vén váy chớ không phải vén quần. Nhưng câu thơ viết -đàn bà đến đó vén váy lên, nghe không được, vén quần lên, êm tai hơn. Tiếc một điều, thơ văn VN mình vào cuối thế kỷ 19 chưa có trường phái ‘Bút Tre’, trường phái nầy sanh sau đẻ muộn, mãi đến thời văn minh Xã Hội Chủ Nghiã mới phát minh ra lận. Dù sao thì váy và quần hình thức tuy có khác nhưng nội dung giống nhau, mặc để che kín phần dưới con người. Có điều nhà văn Trà Lũ không giải nghiã cho chúng ta hiểu chữ con cúi, nhắc tới con cúi thì ông Cuội cười trước, chúng ta cười sau… Cứ xúm nhau tưởng tượng rồi cười, cười mà không hiểu rõ, con cúi là con gì? Tôi tò mò lật tự điển Lê văn Đức và Lê Ngọc Trụ, rồi Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Của, đọc rõ tự điển ghi con cúi có 4 nghiã:
1/ cá cúi : cá có nhiều mỡ như heo biển
2/ heo cúi : con heo
3/ con cúi : rơm cổ vấn dài để làm hỏa mai.
4/ bông cán bắn ra rồi, xe tròn từng con dài để mà kéo chỉ = cũng hiểu là con heo.
Như vậy dầu là rơm vấn để làm mồi lửa hay là bông vải vấn tròn để xe chỉ (cả hai đều có hình dáng con heo, cái bắp đùi giống con heo), bốn nghiã cũng là con heo. Con heo và thịt heo, tiếng Tây là cochon, là porc. Từ chữ cochon có chữ cochonner (làm bậy) cochonnerie (dơ dáy, bẩn thỉu, thô tục) Việt Nam hay Tây dù là nghiã nào thì cũng là con heo, đồ con heo với chuyện con heo… xấu thiệt là xấu, nghiã đen lẫn nghiã bóng.
Trong quyển Người Tù Khổ Sai Papillon, bản tiếng Pháp, tôi nhớ có đoạn ông Papillon khi bị giam ở quần đảo Guyane thuộc Pháp, có nhắc đến chuyện mượn con heo của một người tù Bắc Kỳ (Tonkinois) mà người tù nầy gọi con heo nhỏ của ông ta là ‘con cúi’. ‘Con cúi’ ủn ỉn đi trước, Papillon lò dò theo sau từng bước, thì tránh được nguy hiểm, khỏi lọt xuống các bãi sình vắt võng xung quanh trại giam, trốn thoát được ra ngoài. Ông Papillon đã dùng chữ ‘le con cui’ rõ ràng trong tác phẩm. Tôi đọc ngang đây thì biết rõ ông Papillon viết đúng sự thật, không hề thêu dệt như một số nhà văn ngồi nhà mà tưởng tượng… Ông không dùng chữ annamite và cochon, mà dùng chữ ‘Tonkinois’ và ‘con cui’ trong câu chuyện. Trong Nam hồi tôi còn nhỏ, nghe mấy bà hàng xóm thường nói: "Chiều rồi phải lo cho heo cúi ăn". Như vậy ở ngoài Bắc thời Nguyễn Khuyến gọi con heo là con cúi là đúng. Nhưng con heo của Papillon là heo Việt Nam, loại heo mọi nhỏ và đen, còn heo của Nguyễn Khuyến, tại sao lại trăng trắng, thiệt tình tôi không biết. (heo Việt Nam bây giờ trắng to là giống heo ngoại quốc mới nhập cảng sau nầy) Có vị nào biết được, xin được chỉ giáo, thành tâm đa tạ.
Bàn về giọng Nam, giọng Bắc, nhà văn Trà Lũ khá công bình, ông viết không thiên vị, mỗi miền đều có cái hay cái dỡ, tùy theo trường hợp mà dùng giọng nầy hay giọng kia. Giọng nào ông cũng yêu hết: - Ông bồ chữ ODP góp thêm ý. Rằng hát tân nhạc, các ca sĩ người Nam cũng phải hát theo tiếng Bắc thì mới hay. Ví dụ lời ca "Anh ơi anh, chuyện chúng mình ta tính đi thôi..." nếu hát theo tiếng Nam "ăn ơi ăn, chuyện chúng mìn ta tín đi thui" thì không thấy hay gì hết. Nhưng khi ngâm vọng cổ thì anh nghệ sĩ Bắc Kỳ phải theo tiếng Nam thì mới thấy mùi…
Nhà văn Trà Lũ đã có nhận xét thật chí lý. Quả là đúng như vậy, chuyện hát tân nhạc và vọng cổ chứng minh rõ ràng tùy theo trường hợp nào thì nên dùng giọng Nam, khi nào nên dùng giọng Bắc. Nhưng viết ngang đây tôi xin đóng góp vài nhận xét, đa số nhạc sĩ đặt bài hát (compositeur) là người Bắc, nên ca sĩ phải hát theo giọng Bắc, nhạc sĩ là người Trung thì ca sĩ phải hát theo giọng Trung, nhạc sĩ là người Nam phải hát theo giọng Nam (như Phương Dung hát nhạc Lam Phương) Có một số nhạc sĩ người Nam khi viết nhạc bắt chước viết theo lối văn Bắc thì ca sĩ cũng phải hát theo giọng Bắc.
Hình thể đất nước ta thiếu chiều ngang mà phát triển theo chiều dọc, thời chúa Nguyễn chế độ doanh điền tổ chức các đợt di dân từng vùng ở đất Bắc vô đàng trong khai thác đất mới. Vùng châu thổ sông Hồng, vùng trung du, vùng thượng du Bắc Việt, vùng biên giới, đồng bằng, núi non cao thấp, xa gần khác nhau, giọng nói có khác nhau, khi vào trong Nam thì định cư từng đợt một, từng tỉnh một, theo chánh sách tằm ăn, nên giọng nói từng tỉnh, từng vùng trong Nam cũng lại biến đổi thêm chút nữa… Huế khác, Quảng Trị khác, Quang Nam khác, Quảng Ngãi khác, Bình Định khác, Lục Tĩnh khác… Giọng nói có biến đổi và tiếng nói cũng khác biệt đôi chút, theo thời gian. Trà Lũ đã chứng minh.
….Tiếng Bắc xưa nay vẫn được xem như là tiếng gốc tiêu chuẩn, thực sự đã biến thái do ảnh hưởng của tiếng Hán và sau nầy của tiếng Âu Châu. Tiếng Việt nguyên thủy đã từ miền Bắc theo chân lớp di dân vào miền Nam. Khoa ngôn ngữ học đã cho thấy: các di dân bao giờ cũng mang theo và bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Cách đây mấy trăm năm, những người di dân vào miền Nam này thuộc gia đình vợ con lính tráng và những tù nhân phải lưu đày. Tiếng nói của họ là tiếng nói ban đầu, tiếng Việt tinh ròng và bình dân. Một chứng cớ rõ ràng nhất về việc nầy là tiếng Việt miền Nam có rất nhiều từ giống y như tiếng người Mường miền thượng du Bắc Việt. Mà người Mường được coi là nhóm người Việt cổ.
Anh John trưng dẫn một bằng chứng. Trong bài ca dao nói lên nỗi lòng của anh con trai xứ Đàng Ngoài nhớ người yêu đã vào xứ Đàng Trong, anh đã nói thế nầy:
Đường vô xứ Nghệ loanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang…
Trong mấy câu thơ nầy, tiếng Vô và tiếng Thuơng là tiếng Bắc Kỳ rõ ràng chứ không phải tiếng miền Nam đẻ ra sau nầy. Lời anh Bắc Kỳ mà. Tiếng Vô và tiếng Thương nầy, cũng như trăm ngàn tiếng Bắc khác, đã theo lớp di dân từ Bắc vào Nam…
Đọc ngang đây tôi thấy nhà văn Trà Lũ thiệt là có lý và đâm nhớ lại một định luật căn bản của môn ngữ học (linguistique) "dân tộc nào càng đi xa khỏi quê hương thì càng giữ lấy cái gốc của quê hương". Người miền Nam là những người bỏ xứ ra đi vào các thế kỷ 16, 17, 18… thì họ là những người giữ lấy tiếng nói quê hương vào thời kỳ đó. Còn ở đất Bắc quê hương gốc, thì ngôn ngữ mỗi ngày mỗi thay đổi, phát triển… Có thể ví người miền Nam nói tiếng Việt khác người Bắc, giống như dân Canada, dân Mỹ, Úc, nói tiếng Anh, dân Quebecois nói tiếng Pháp, khác hẳn dân Anh và dân Pháp chánh gốc.
Viết ngang đây thì tôi sực nhớ tới chúng ta, những người tỵ nạn xa xứ gần 30 năm nay, nếu có dịp mà trở về quê hương, đôi lúc chúng ta phải ngỡ ngàng vì mình và người trong xứ, nói chuyện khác biệt nhau nhiều lắm. Khác biệt về giọng nói như nhà văn Trà Lũ nhận xét: - Đó là cái giọng the thé của người Hà Nội bây giờ. Nó ngọng như người Mường nói tiếng Kinh… Khi vợ tôi đến thăm và nghe vợ tôi nói chuyện thì cụ ôm chầm lấy vợ tôi rồi kêu ầm lên: "Các con ơi, các cháu ơi, ra đây mà nghe tiếng Hà Nội nầy. Cô đây mới thực là người Hà Nội và nói đúng tiếng Hà Nội thời xưa nầy”.
Bà cụ nói "tiếng Hà Nội ngày xưa" là muốn ám chỉ ngôn ngữ Hà Nội những năm trước 1954. Có một nhạc sĩ đã nhận xét về giọng Hà Nội bây giờ cao hơn ngày trước một phần tư (1/4) octave. Cũng vậy nếu bà con trong Nam bây giờ mà gặp chúng ta từ Mỹ, Canada, Úc về thì họ sẽ kêu lên là chúng ta nói đúng ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975. Nếu không khác biệt về giọng nói thì cũng khác biệt nhau về tiếng nói. Có nhiều tiếng Việt bây giờ lạ lùng lắm, trong đối thoại hoặc trên sách báo, chúng ta hoàn toàn không hiểu. Hay hay dở, đúng hay sai, phát triển hay thoái hóa, thời gian sẽ gạn lọc… Duy có điều chúng ta, những người tỵ nạn xa xứ có thể tự hào -chúng ta là những người bảo tồn nguồn gốc dân tộc. (đọc Mười Ngàn Năm, thuật chuyện cô Mùi, gốc gác người Việt xa xăm ở Quảng Tây, Đất Quê Ngoại, trang 167)
Sau khi đọc qua tất cả các bài viết và ghi chép vài nhận xét chúng ta thấy ngay sở trường Trà Lũ là viết theo thể loại tùy bút, loại văn nầy có từ thời Lê mạt Nguyễn sơ, cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Các tác phẩm buổi ấy phần nhiều ghi chép những điều tác giả mắt thấy tai nghe, tùy bút là theo ngọn bút, gặp cái gì chép cái ấy. Hai quyển Vũ Trung Tùy Bút (theo ngọn bút viết khi mưa) và Tang Thương Ngẫu Lục (ghi nhanh các chuyện tang thương, viết chung với Nguyễn Án) của Phạm Đình Hổ là hai tác phẩm tiêu biểu, mẫu mực. Sau nầy thể loại tùy bút là sở trường của nhà văn Nguyễn Tuân (Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Chùa Đàn, Vang Bóng Một Thời…).
Tùy bút dễ viết mà khó hay. Tại sao vậy? Bởi vì khi viết một truyện ngắn, tác giả phải suy nghĩ cho có lớp lang, câu chuyện phải đặc biệt, phải hấp dẫn, bên trong phải có một thông điệp, phải có tình cảm đậm đà hoặc tư tưởng cao xa để gởi gấm, bố cục phải chặt chẽ, các ý tưởng phải mạch lạc, thông suốt. Chuyện và văn không được giống những gì người đi trước đã viết. Trong khi đó thì tùy bút không đòi hỏi bất cứ điều gì, cứ đặt bút xuống, thấy gì viết nấy, đôi khi không cần đến mạch lạc, miễn sao tác giả và độc giả vui thích là được. Đọc tùy bút ta có cảm tưởng như đọc một cuốn sổ tay, tác giả ghi những điều chợt xảy ra trong óc hay nhân một việc gì đó mà nhớ đến chuyện nầy chuyện kia… Vì dễ viết và viết nhanh nên muốn cho hay, cho xuất sắc là điều rất khó. Văn bản cần giản dị nhưng phải làm sao đạt được tánh chất sinh động và hấp dẫn, bộc lộ được hết nét tài hoa, nét đặc thù… Nguyễn Tuân thành công lớn được nhờ nét khinh thế ngạo vật, Võ Phiến nhờ tánh thâm trầm, quan sát tỉ mỉ, tinh tế… Hiện nay thì có Tưởng Năng Tiến ngang tàng, cười cợt, châm biếm (Sổ Tay Phó Thường Dân). Bùi Bảo Trúc thông minh, sắc sảo, tài hoa (Thư Gởi Bạn Ta)… Ở Canada mình cũng có hai nhà văn viết tùy bút nổi danh, được mọi người yêu mến, nhà văn Song Thao ở Montréal và nhà văn Trà Lũ của chúng ta.
Ngòi bút Song Thao thì kỹ lưỡng, tỉ mỉ, viết chuyện nào ra chuyện đó, mỗi đề tài là một trọng tâm, các tài liệu được dẫn chứng đầy đủ, thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quán nhân sự. Nhà văn tài hoa vùng đất nói tiếng Tây thiệt là giỏi, bao nhiêu chuyện của nhân gian nầy ông viết hết không thiếu món ăn chơi nào. Ông gọi thể loại tùy bút là chuyện phiếm. Phiếm có nghiã là nói chơi, nói tào lao, nói bao đồng, nói lông bông… Tuy là nói chơi mà nét tài hoa là thiệt, nếu không thiệt tại sao có nhiều người mê, không tin quí vị mua các quyển Phiếm (1, 2, 3, 4, 5…) mà xem qua cho biết.
Ngòi bút của Trà Lũ cũng tung hoành không kém Song Thao, nếu đem ra so sánh thì không biết ai cao ai thấp, thôi đành phải nhờ đến câu "xấu đẹp tùy người đối diện". Nhà văn tài hoa của vùng tiếng Anh xứ Canada cũng thiệt là giỏi, chuyện đông, chuyện tây, chuyện kim, chuyện cổ, ông đều biết hết không sót một món nào. Nhưng khác với cách viết xoáy vào trọng tâm đề tài của nhà văn tiếng Tây kể trên, các câu chuyện trong bài viết Trà Lũ thoắt biến thoắt hiện nối tiếp nhau, xoay chuyển lẫn nhau, quấn quít lấy nhau… độc giả không biết đâu mà rờ! Ta có thể ví Trà Lũ dẫn dắt độc giả đi dạo phố Tàu, chưa kịp nhìn ngắm, ăn uống cho đã thèm thì ông đã kéo ngay đến tháp CN Tower cao nhứt thế giới, vừa chưa kịp leo lên tháp ngắm thành phố Toronto bát ngát dưới kia thì ông đưa chúng ta qua thác Niagara Falls hùng vĩ, bụi nước của thác chưa kịp làm ta ướt áo thì ông đã đẩy ta lên xe đi nếm rượu tuyết ngọt lịm ở thành phố cạnh bên…
Ưu điểm hay là khuyết điểm, khó mà trả lời. Nhưng mà cái tài hoa Trà Lũ là ở chỗ đó. Tôi tin cách viết thoắt biến thoắt hiện đó Trà Lũ vô tình mà đạt được, tuy có mức độ. Tôi còn nhớ Kim Thánh Thán khi phê bình Tam Quốc Chí đã khen cách viết của La Quán Trung là thiên cổ kỳ văn. Gọi kỳ văn là nhờ tánh cách "thoắt biến thoắt hiện", đương đánh nhau long trời lỡ đất thì xoay qua nói chuyện pháp thuật trừ ma ếm quỉ, vừa nói chuyện mưu kế thì xoay qua bàn chuyện danh nho tiết tháo, vừa bàn chuyện mỹ nhân xong thì nói chuyện soán ngôi giết vua, vừa nói chuyện bói toán xong thì quay qua thuốc men, mổ xẻ, vừa tả cảnh quân reo ngựa hí vang vang thì xen vào cảnh đạp tuyết bời bời, khoanh tay đứng chờ bậc ẩn sĩ cao tọa… Vua, quan, anh hùng, gian hùng, mỹ nhân, hòa thượng, đạo sĩ, y nho lý số, cường hào ác bá và đám dân đen đủ mặt… thương yêu nhau, tranh giành nhau, chém giết nhau, không thiếu một ai, không thiếu chuyện gì. Ai muốn tìm hiểu sinh hoạt xã hội thời đó, cứ đọc Tam Quốc Chí sẽ biết rõ ngọn nguồn. Hiện tại chúng ta cũng có ngọn bút Trà Lũ tung hoành trên các báo, liên miên bất tuyệt, những ai muốn tìm hiểu Canada với tất cả mọi sinh hoạt văn học, chánh trị, kinh tế, xã hội… thì nên tìm đọc sách của Trà Lũ.
Đọc sách của nhà văn Trà Lũ vừa vui vừa bổ ích. Vui là vì cây viết có duyên, bất cứ bài nào, đoạn nào, dầu ai khó tánh đến đâu cũng không thể đọc qua mà không buột cười cho được. Bổ ích vì kiến thức được cập nhật hằng ngày, những tin tức đặc biệt trên thế giới đều có đủ, hơn nữa sự hiểu biết của tác giả sâu rộng, những nhận xét ly kỳ, từng chữ từng câu gợi cho ta nhớ lại chuyện xưa, giúp ta biết thêm chuyện mới bây giờ. Những cuốn sách có chữ Đất làm nhan đề của nhà văn Trà Lũ ích lợi như vậy, vui tươi như vậy, tại sao các bạn lại chưa có, ngoài hội trường trưa nay, để bán nhiều lắm với chữ ký tặng của tác giả nữa. Xin được hân hạnh kính mời !
Võ Kỳ Điền
(Trung Tâm Cộng Đồng St. Christopher Toronto, ngày 6 tháng 5 năm 2006)
Nhà văn Trà Lũ tên thật là Trần Trung Lương, sinh năm 1935 tại Ninh Bình, Bắc Việt. Vào Nam năm 1954. Giáo sư Đại học Sư phạm Sài Gòn trước 1975. Hiện định cư tại thành phố Toronto (Canada) và làm việc cho Bộ Văn Hoá & Công Dân của tỉnh bang Ontario.
Ông sáng tác sau 1975, cộng tác với nhiều tạp chí tại hải ngoại.. Từng giữ chức chủ tịch Văn Bút Việt Nam trung tâm Ontario (1991-1995).
Những tác phẩm của ông, hầu hết đều lấy cái nền Đất để trưng bày những vấn đề trong cuộc sống, cùng tình cảm ông dành cho mỗi góc cạnh cuộc đời. Sau những: Miền Đất Hạnh Phúc (1989), Đất Mới (1991), Miền Đất Hứa (1993), Đất Thiên Đàng (1995), Đất Yêu Thương (1997), Đất Lạnh Tình Nồng (1999), Đất Quê Ngoại (2001), Đất Anh Em (2003).. đến nay là Đất Nhà. Sức viết của ông khá mạnh và cứ chu kỳ hai năm, ông lại "lên khuôn" một lần để gởi đến bạn đọc.
(Trích bài của Võ Kỳ Điền, ban Việt Hán, khóa 1961-1964)
- Vài nhận xét về bút pháp Trà Lũ Võ Kỳ Điền Nhận định
- Bên Kia Núi Võ Kỳ Điền Truyện ngắn
• Vài nhận xét về bút pháp Trà Lũ (Võ Kỳ Điền)
- Đọc “Đất Thiên Thai” của Trà Lũ (Song Thao)
- Đọc 'Đất Nhà' của Trà Lũ (Hoàng Yên Lưu)
- Cùng cười với chuyện cười của nhà văn Trà Lũ (Hà Giang/Người Việt)
- Món quà Tết của nhà văn Trà Lũ (Hoàng Yên Lưu)
- Giới thiệu 2 tác phẩm mới của nhà văn Trà Lũ. (vietcatholic.org)
- Tiếng cười hả hê, an lạc của Trà Lũ (Ngọc Lan/Người Việt)
- Ra mắt sách của nhà văn Trà Lũ tại Nhật báo Người Việt (Người Việt Daily News)
- Lá thư Canada 1/5/2023 Thông Điệp Bàn Tay Năm Ngón
- Lá Thư Canada: Giải Nhất : Vợ Đang Ngủ
Bài trên mạng:
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |