|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ ngâm sĩ Tô Kiều Ngân
(1926 - 2012)
Trong thập niên 80’ thế kỷ trước, khi phụ trách một chương trình sinh hoạt văn học nghệ thuật cho đài phát thanh – lúc ấy ông Vũ Quang Ninh là giám đốc chương trình đài Việt Ngữ của cơ sở truyền thông đầu tiên của người Việt hải ngoại tại miền Nam California – tôi có làm một chương trình 15 phút gọi là Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật, ngoài phần tin tức mỗi chương trình có mục nói về một nhân vật nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trong khoảng 20 năm lịch sử 1954-1975; hai người phụ trách chính, vừa viết bài vừa trình diễn, là Viên Linh và Khúc Lan. Chương trình rất giản dị: ngoài phần tiểu sử người nghệ sĩ được nói đến, ví dụ nghệ sĩ Hồ Điệp – giọng ngâm vàng trong không gian âm thanh – chúng tôi nhắc đến tiểu sử của bà, nói đến một hay hai chương trình bà đã là nhân vật chính, ví dụ Ban Tao Đàn của thi sĩ Đinh Hùng, chúng tôi còn phát thanh lại ít nhất là một đoạn thơ do bà đã trình diễn, đã ngâm lên.
Chương trình bắt đầu và tiến triển mỗi tuần một lần, một năm khoảng 50 lần, và kéo dài khoảng hai năm, và chúng tôi đã có một bộ vừa văn bản vừa băng nhựa, đĩa nhựa, chân dung ngâm vịnh với thơ và nhạc, của gần trăm văn nghệ sĩ. Có thể gọi bộ đó là một cuốn sổ nhân văn, gồm tiểu sử và tác phẩm nhiều văn nghệ sĩ, ngày nay, khi những dòng chữ này được viết ra, có ít ra là 108 nhân vật trong giới văn học nghệ thuật Việt Nam trong và ngoài nước, phần lớn cho tới ngày nay, là những người đã quá cố.
Nhìn lại sinh hoạt văn học nghệ thuật của hơn 40 năm ở hải ngoại, và nhân đó, 20 năm ở miền Nam, thật là đồ sộ, chỉ tiếc là người Việt hải ngoại không có một hàn lâm viện, không có một hội văn nghệ sĩ có gốc nguồn lâu bền từ quá khứ, đó là một điều vô cùng đáng tiếc. Nét chính của sự thiếu sót này căn nguyên lớn là lực phá hoại tự thân của lưu dân, và nhất là chủ trương và hoạt động được tài trợ của những kẻ gây ra cuộc lưu vong. Nhưng không vì thế mà không có những người yêu văn hóa, cộng với các thành phần xã hội ngưỡng mộ tiền nhân vì nước, không hành động hay kém đi hoạt động. Có nhiều công trình vẫn thành hình.
Hãy xét về Tháng Mười, chỉ trong Tháng Mười, nhiều tài liệu cho thấy chúng ta có thể tìm ra được và kể ra được công trình của những trí thức văn nghệ sĩ như sẽ kể ra dưới đây.
Chỉ trong Tháng Mười, chúng ta có:
Tạ Trọng Hiệp, Tháng Mười 1996
Bùi Giáng, Tháng Mười 1998
Hà Thượng Nhân, Tháng Mười 2011
Tô Kiều Ngân, Tháng Mười 2012
Xa hơn nữa chúng ta nếu đã có tuổi, có thể còn biết đến những người đã ra đi lâu hơn:
Bàng Bá Lân, Tháng Mười 1988
Quang Dũng, Tháng Mười 1988
Trần Văn Tuyên, Tháng Mười 1976
Đỗ Tốn, Tháng Mười 1973
…
Cứ làm như thế từng tháng một, chúng ta sẽ có việc làm cả năm. Trong tám người kể trên có 5 thi sĩ.
Mục này đã từng viết về các thi sĩ Bàng Bá Lân, Hà Thượng Nhân, lần này chúng ta nhớ đến một người song hành vừa trình diễn thơ, ngâm thơ, và cũng làm thơ nhưng không nhiều, đó là Tô Kiều Ngân.
Người ta gọi ông là thi sĩ, cũng thường gọi ông là ngâm sĩ, vì ông làm cả hai việc, mà ngâm thơ trên làn sóng đài phát thanh là việc ông làm thường xuyên mỗi tuần. Ông tên khai sinh là Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế, khoảng giữa thập niên 50 nổi tiếng qua làn sóng phát thanh bằng giọng ngâm thơ và tiếng sáo của ông hơn là bằng ngòi bút. Đó là một người hoạt động thi ca hơn là sáng tác thơ văn. Những năm đó Ban Tao Ðàn là một hiện tượng sinh hoạt văn nghệ rất được hâm mộ, không riêng với một Tô Kiều Ngân mà còn với những người trong ban, ngoài Đinh Hùng còn có Thanh Nam giữ phần biên tập, còn có Quách Đàm, Hồ Điệp, Hoàng Thư, Hoàng Oanh. Ngoài tiếng sáo và giọng ngâm, Tô Kiều Ngân còn cùng nhà văn Thanh Nam chủ trương tờ tuần báo Thẩm Mỹ và cộng tác thường xuyên với tờ Tiểu Thuyết Thứ Năm hay Tiểu Thuyết tuần san. Về thơ ông xuất bản được thi phẩm “Ngàn Năm Mây Trắng.”
Sau 1975 và thật muộn màng, phải hai năm sau khi ra đi vĩnh viễn Tháng Mười, 2012, tác phẩm “Mặc Khách Sài Gòn” của ông mới được ra đời. Đây là một ấn phẩm trang nhã do Nhã Nam xuất bản, bìa mộc mạc màu gỗ, với chân dung các nhân vật nghệ sĩ được viết đến ở bên trong, Tô Kiều Ngân may mắn thay còn để lại cho bằng hữu và người đọc người nghe, nói chung là giới thưởng ngoạn và yêu chuộng nghệ thuật còn lại, tác phẩm tâm huyết của ông nhan đề “Mặc Khách Sài Gòn.”
Ông giải thích như sau trong “Lời Nói Đầu:”
“Mặc Khách Sài Gòn” là từ chỉ các văn nhân thi sĩ cùng những người hoạt động nghệ thuật, mong muốn đem tài hoa, tim óc ra tô đẹp cho đời. Chữ “khách” hàm ý chỉ những người của đám đông, được nhiều người lưu tâm hay ngưỡng mộ. Mặc Khách Sài Gòn khá đông, mỗi người một vẻ, không chỉ một lúc mà viết hết được, nên chỉ xin giới hạn trong một số người mà tác giả may mắn quen biết, giao du hoặc cùng hoạt động chung trong một môi trường nghệ thuật.”
Những người được thể hiện qua ngòi bút của Tô Kiều Ngân qua những bài viết nhan đề như sau. Nhan đề mang tính văn nghệ, nên người điểm sách sẽ ghi chú bên cạnh cho rõ hơn:
- Nhà văn An Nam khổ như chó: Viết về nhà thơ Nguyễn Vỹ (trang 7)
- Ai xuôi vạn lý: Viết về nhạc sĩ Lê Thương, tác giả ba bản Hòn Vọng Vu.
- Để ta tròn một kiếp say: Viết về Vũ Hoàng Chương.
- Trời cuối thu rồi em ở đâu: Viết về thi sĩ Đinh Hùng.
- Thương về năm cửa ô xưa: Viết về họa sĩ Tạ Tỵ, tác giả bài thơ nổi tiếng về Hà Nội.
- Tấm thân với mảnh hình hài: Viết về thi sĩ Bùi Giáng.
- Cho tôi về Ký Con: Ký Con là tên con phố ở Sài gòn, nơi Mai Thảo sống trong căn nhà phố dùng làm tòa soạn tạp chí Sáng Tạo.
- Chưa bao giờ buồn thế; Một lời nhạc của Cung Trầm Tưởng.
- Về yêu hoa cúc: Một nửa câu thơ của Nguyên Sa: Tóc nàng vàng tôi về yêu hoa cúc.
- Gối đầu trên đại bác: Hoàng Trúc Ly
- Lao vào lửa: Thụy Vũ
- Cánh đồng con ngựa chuyến tàu: Một câu thơ của Tô Thùy Yên.
Ba bài sau cùng trong tập sách viết về Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng và Phạm Thiên Thư.
Tác giả Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, ra đời tại Huế năm 1926, mất tại Sài Gòn, Tháng Mười 2012.
Cuốn “Mặc Khách Sài Gòn” dày 270 trang, do Hồng Đức xuất bản, Nhã Nam tổng phát hành, trình bày nhã nhặn, giản dị mà phong cách rất sang. Cảm ơn cô Quỳnh Hương, con gái tác giả Tô Kiều Ngân, đã gửi cho chúng tôi cuốn sách này từ 2014, nay mới có dịp nói đến.
- Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh Viên Linh Nhận định
- Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan Viên Linh Thơ
- Bạch thư Phạm Huấn Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi Viên Linh Nhận định
- Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Viên Linh Hồi ký
- Nỗi âu lo của nhà giáo Bảo Vân Viên Linh Hồi ký
- Con hạc của vua Tự Đức Viên Linh Giai thoại
- Tản Đà Và Hai Chữ Non Nước Viên Linh Hồi ký
- Hoài Điệp Tử, nhà văn nhà báo chết trong ngọn lửa Bolsa Viên Linh Hồi ký
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |