|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Linh Mục Thanh Lãng
(1924 - 1990)
Thuở ở đại học tôi học Toán. Ngôn ngữ Toán học vốn đẹp một cách thần kỳ, nhất là ở những định nghĩa. Cái đẹp ấy không được giảng dạy ở trình độ trung học. Học sinh trung học được hướng dẫn học cách tính toán, học các công thức, các phương trình, mà không được học định nghĩa, nên có thể giải các bài toán, có thể tính đạo hàm, nguyên hàm v.v. như máy, mà không biết mình đang tính cái gì. Cứ nhắm mắt nhắm mũi áp dụng công thức mà làm. Mà cho ra các đáp số, lời giải. Ngay cả những khi chúng không hề hiện hữu. Định nghĩa vốn là nền tảng của Toán học nên chúng được xây dựng một cách chặt chẽ, bằng một thứ ngôn ngữ chính xác, nhiều khi vô cùng đẹp, vô cùng lý thú.
Cái đẹp ấy tuy có quyến rũ tôi, nhưng đã không làm tôi say đắm. Như ngôn ngữ của văn chương, triết học, của luận lý, mỹ học đã. Chúng thật ảo diệu gấp bội. Ở phạm trù trái nghịch lại với ngôn ngữ Toán. Ở ngay chỗ người ta không thể xác định rõ ràng cái gì là cái gì. Cái đẹp ư? Thơ hay ư? Ý nghĩa của thân phận con người? Chân thiện mỹ? Người ta chỉ có thể lọ mọ đến gần chúng không bằng cách nói ra nó là cái gì, mà là nói cái nó không phải là. Đó là một thử thách khiến ta vận hết sức mình, rướn người với tới. Và chỉ tới được gần. Nhưng đủ gần để ta bàng hoàng ngây ngất.
Như lời Bùi Giáng từng nói những người phụ nữ ông chưa gặp đẹp một cách chiêm bao. Vì thế tôi thân thiết, gần gũi với những người học ở Văn khoa. Mượn sách vở của họ về để đọc. Tôi đã mua Văn, Khởi Hành. Hay tìm mua các sách dạy tự học chữ Hán để có thể đọc Đường Thi thẳng từ nguyên tác.
Niềm đam mê ấy của tôi bị đứt đoạn sau 1975. Trong những năm sau cuộc di tản đổi đời, sống ở Mỹ vào thập niên 70, 80, tôi sống lúng túng, phần vì không tìm đâu ra sách vở, có chăng lèo tèo vài tác phẩm do nhà xuất bản Đại Nam in lại từ một số ít sách báo. Tìm mượn sách vở, tài liệu ở Cornell, Havard v.v. là chuyện không tưởng, không biết để mà nghĩ đến. Phần vì phải lo vật lộn, thích ứng với đời sống mới trong đó mọi chuyện đều khác lạ. Phần lại phải đương đầu với cái mặc cảm phạm tội đã không chia sẻ ngọt bùi với điêu linh vận nước. Tôi là ai giữa mùa thay đổi ấy!
Ước gì trong những ngày ấy tôi đã có trong tay bộ "Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam” của Giáo sư Thanh Lãng. Ông quả là người mục quán quần thư. Nhưng không chỉ thế. Ông còn có cái tài thu góm, sắp xếp vô ngần số lượng những tinh hoa của bao thế hệ tiền nhân và kể lại trong một tiến trình minh triết và mạch lạc. Xin mời đọc một đoạn trong phần dẫn nhập bước vào thời của nền văn học mới:
Nền văn học cổ điển, nghĩa là nền văn học lấy luật lệ phép tắc của người xưa làm khuôn mẫu, quả thực giống như một giòng sông liên tục, trải qua hàng ngàn năm hầu như không bị giống tố bão táp bao giờ. Dòng nước ấy chảy liên tục, triền miên cho đến năm 1862, thì bỗng nổi sóng gió vì vấp phải một chiếc đập lớn, cao vòi vọi cắt đứt con sông ra làm hai khúc: khúc từ năm 1862 trở về trước gọi là thời đại cổ điển, khúc từ năm 1862 trở về sau này gọi là thời đại mới.
Rồi ông lại chia cái thời đại mới ấy ra làm ba thế hệ: thế hệ Đối Kháng 1862 đến 1913, thế hệ Liên Hiệp 1913 đến 1932, và thế hệ Đoạn Tuyệt 1932 đến1945. Đối kháng hay liên hiệp là với trào lưu tư tưởng đến từ Tây Phương, và đoạn tuyệt là với cái cũ, với cách nhìn của Nho Khổng. Cách chia thật hợp lý, thông suốt. Về những thế hệ ấy là gần cả nghìn trang giấy, vẽ ra mồn một cái không khí văn học, cái chân dung của mỗi mọi tác giả, cái sôi nổi của các cuộc tranh luận, của từng mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ. Từ Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trường Tộ, đến phong trào Đông Du, từ Dương Khuê, Nguyễn Khuyến đến Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương của thế hệ Đối Kháng. Từ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh đến Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, từ các cuộc tranh luận “Vụ án chữ Hán” với Ng. H.V., đến “Vụ án Kiều” với Ngô Đức Kế, Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng, từ tiểu thuyết Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách đến Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh của thế hệ Liên Hiệp.
Từ ảnh hưởng của việc Bảo Đại hồi loan năm 1932 lên các sinh hoạt văn chương, từ tuần báo Phong Hóa của Phạm hữu Ninh với Trần Khánh Giư, Nguyễn Tường Tam, đến sự xuất hiện của Tự Lực Văn Đoàn, từ các cuộc bút chiến giữa Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư với Hải Triều, Bùi Công Trừng, giữa Phan Khôi với Hồ Xanh, từ tiểu thuyết Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng đến Thạch Lam, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, từ thơ Thái Can, Quách Tấn, Vũ Đình Liên đến Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, từ Xuân Diệu, Thế Lữ đến Vũ Hoàng Chương và nhiều nhiều người, nhiều chuyện sôi nổi khác của sinh hoạt văn học thế hệ Đoạn Tuyệt. Thật là một công trình đồ sộ mà khúc triết, một giá trị vô ngần cho những ai muốn thấm nhuần văn học của một thời.
Ấy là quyển hạ của nền văn học mới 1862 - 1945, mà tôi và anh Phạm Văn Nhàn chia ra người đọc quyển hạ, người giữ quyển thượng, đọc trước. (Nay thì tôi mới nhận được trọn bộ cả hai quyển nhưng còn để đấy chưa đọc vì đi xa mới về. Mà có lẽ đọc xong gần hai ngàn trang sách ấy cần cả năm cũng nên.) Viết đến đây tôi không khỏi nghĩ đến chuyện thế còn từ 1945 đến 1975 thì sao? Và dòng văn chương hải ngoại từ 1975 đến nay? Những tác phẩm như 45 Năm Văn Chương Việt Nam của Thi Vũ, bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, hay gần đây hơn, các biên khảo của Nguyễn Vy Khanh về các nhánh văn chương trong nước và hải ngoại, là những nguồn tài liệu quý giá. Nhưng người ta không khỏi mong ước một công trình gom góp toàn diện hơn, thống suất hơn, nhất là có sự góp mặt đầy đủ hơn của các cây viết “trẻ” thời chiến tranh Nam Bắc.
Tôi mở đầu bài viết này bằng cái đẹp tinh thông của ngôn ngữ Toán: chính xác, rõ ràng, và so sánh nó với cái đẹp mơ hồ, mông lung của ngôn ngữ nghệ thuật. Nhưng cái đặc sắc ở công trình nghiên cứu văn học của linh mục Thanh Lãng lại nằm ở cái văn phong, cái cách nói minh hiển trên hàng nghìn trang sách. Hai dòng ngôn ngữ tưởng chừng chảy ngược hướng cũng có lúc lại gặp nhau. Ông Sao Trên Rừng Nguyễn Đức Sơn ở đâu đó trên một tác phẩm của ông có kể là ông từng theo học ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn nhưng đã bỏ học sớm vì không tin là trường đại học ấy có thể sinh sản ra một gương mặt ra hồn. Cái cách nói ấy nên hiểu chỉ là cách dùng phủ định để định nghĩa một điều bất khả định nghĩa. Tôi thì tôi tin là các sinh viên theo học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn hẳn là đã may mắn thọ nhận, cũng như tôi đang may mắn được ông Sư Vương Trần Hoài Thư vực bộ sách này sống dậy mà in ra, gửi tặng tôi. Thật muôn phần cảm tạ, tác giả LM Thanh Lãng, và Thư Ấn Quán Trần Hoài Thư.
Tô Thẩm Huy, 15 tháng 10, 2023
- Nghĩ về thơ Tô Thẩm Huy Tạp luận
- Vài Ngẫm Nghĩ Đọc Bảng Lược Đồ Văn Học Của Linh Mục Thanh Lãng Tô Thẩm Huy Tạp luận
- Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan Và Tấc Lòng Thiên Cổ Tô Thẩm Huy Nhận định
- Lữ Kiều, Giòng Suối Dịu Dàng Hơn Tình Yêu, Dữ Dội Như Định Mệnh Tô Thẩm Huy Nhận định
- Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan và Chướng Vân Từ Tô Thẩm Huy Nhận định
- Cao Đông Khánh Kẻ Say Đắm Hồn Nhiên Với Cuộc Đời Tô Thẩm Huy Nhận định
• Thanh Lãng - Nhà Văn Hóa Bị Lãng Quên (Nguyễn Kiến Thiết)
• Vài Ngẫm Nghĩ Đọc Bảng Lược Đồ Văn Học Của Linh Mục Thanh Lãng (Tô Thẩm Huy)
• Linh Mục Thanh Lãng, nhà văn học sử (Nguyễn Vy Khanh)
• Thanh Lãng (Học Xá)
• Bút ký về hai vị thầy của tôi Gs Nghiêm Toản và Lm Thanh Lãng (Nguyễn-Văn Sâm)
• Sứ Mạng Của Người Cầm Bút Theo Linh Mục Thanh Lãng (Liễu Trương)
- Thanh Lãng, nhà văn hóa bị bỏ quên! (Nguyễn Văn Lục)
- Giáo sư Thanh Lãng – Thầy tôi (Nguyễn Kiến Thiết)
- Tiểu Sử (wiki)
- Bảng lược đồ Văn học Việt Nam (Quyển Thượng)
- Bảng lược đồ Văn học Việt Nam (Quyển Hạ)
- Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932
- Những vụ án văn học thế hệ 1932
- Câu Đố
• Bùi Giáng - Thi ca và Tư tưởng (Tuệ Sỹ)
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |