15-11-2013 | VĂN HỌC

Vòng Hoa Cho Thi Sĩ

  Ký Giả LÔ RĂNG


   Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện trong một buổi gặp gỡ đồng bào ở Úc.

Tuần truớc Cộng đồng người Việt ở Sydney tưng bừng chào đón người tù lương tâm, ngục sĩ, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Trên 5 năm ở xứ tạm dunng này, tôi chưa thấy người khách phương xa nào được cộng đồng chúng ta nôn nao đón chờ như vậy. Ủy ban tiếp đón được tổ chức ân cần ở tiểu bang này, ở tiểu bang kia, từ thành phố này sang thành phố khác. Người ta đang khoác cho thi sĩ vòng hoa.


Nguyễn Chí Thiện đang làm sống lại cái phong cách của nhà thơ cổ đại Tây phương. Thủa ấy thi sĩ được coi như một thứ demi-dieu, đi lang thang khắp nơi này nơi khác, tuyên đọc thi ca như rao giảng sấm truyền. Thi sĩ vừa là thần của ngôn ngữ vừa là tiên tri... (Heureux qui, comme Ulysse...)


Ngày nay Nguyễn Chí Thiện đi hết tiểu bang này sang tiểu bang kia ở Mỹ, rồi đi Canada, đi Pháp, bây giờ sang Úc. Ông đang là người của đám đông, vì ông là tiếng nói của lương tâm. Ý kiến của ông có ngót 30 năm tù Cộng sản làm bảo chứng. Một con trai ở biển Đông bị một vết thương làm đứt ruột. Nhưng con trai ấy liệm kín vết thương suốt năm này sang năm khác. Lâu rồi vết thương thành ngọc, đó là ngọc trai.


Nguyễn Chí Thiện cũng ôm kín vết thương suốt mấy chục năm ngục tù nên giờ đây ý kiến của ông cũng được coi là ngọc (hy vọng vậy). Từ hơn năm nay, từ khi ông đến Mỹ, ông là trung tâm chú ý của mọi người. Ông đến đâu là đồng bào kéo đến. Ở đâu ông cũng được lắng nghe...


Tôi là một anh già, rất ít khi dám tới những chốn trù nhân quảng tọa. Nhưng kỳ này tôi quyết tới nơi để nhìn cho rõ mặt người tù lương tâm, người tôi chỉ "văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình". Và nếu có thể, tôi sẽ nắm lấy tay thi sĩ như một cử chỉ "làm quen". Bởi, tự trong lòng, tôi đã từ lâu yêu mến con người ấy. Không đơn thuần chỉ vì yêu thích thơ ông mà đọc trong tiểu sử nhà thơ tôi thấy có lý do để gần gũi ông hơn. Trong những năm tù ra Bắc, từ trại quân quản 776 Liên trại 2 đến nhà tù Yên Hạ (Sơn La), nhà tù Tân Lập (Vĩnh Phú) cho tới nhà tù Thanh Phong (Thanh Hóa) giáp với Hạ Lào, tôi luôn luôn có ở bên người bạn tù đồng cảnh ngộ Nguyễn Công Giân. Anh Giân, người sĩ quan tình báo cao cấp, là anh ruột của Nguyễn Chí Thiện. Chúng tôi trong những năm tù khổ sai, biệt xứ thường chia nhau đắng cay, tủi nhục, cũng như củ sắn, miếng khoai.


Cùng được xếp loại "ác ôn, nợ máu" chúng tôi từng tâm sự vụn... nhưng bạn tôi, anh NCG không tiết lộ cho tôi biết một chi tiết nào về người thân kiệt hiệt Nguyễn Chí Thiện. Có thể trên 20 năm xa cách, bạn tôi NCG chưa biết rõ hết về ông em. Hoặc là với tính cách nhà nghề của một tay tình báo lão luyện, bạn tôi biết rõ người CS đặt vấn đề liên hệ gia đình quan trọng như thế nào (truy cứu đến 3 đời) nên anh lặng tiếng im hơi, cho cuộc đời tù mịt mù đỡ phần di lụy. Nhưng bạn tôi cũng tù lâu hơn tôi 1 term (3 năm), mãi 1988 mới được tha về.


Ỏ trong nhà tù, "được" học tập, "được" đọc sách báo của họ, tôi mới nhận ra người CS đã suy tôn lãnh tụ của họ như thế nào. Cực kỳ, không tưởng tượng nổi. Ở những nơi công cộng, chốn tôn nghiêm có ảnh "Bác Hồ" là chuyện dĩ nhiên. Mọi công sở, mọi nhà ảnh :"Bác Hồ" là phải ngự chỗ trang trọng nhất. Một túp nhà sàn xiêu vẹo của người thiểu số trong rừng sâu cũng có ảnh "Bác Hồ" lộng kiếng. "Bác Hồ" là một hình ảnh linh thiêng, toàn thiện, toàn năng. Trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, chỉ nói đến người (tức là bác Hồ) mà không viết hoa cũng đi tù mút mùa. Thế mà, ở ngay phần đất CS, giữa đất Bắc xã hội chủ nghĩa, Nguyễn Chí Thiện đã viết phăng phăng:


Hôm nay ngày 19 tháng 5

Tôi làm thơ chửi bác

Vần thơ mới hơi phang phác thì tôi thôi

Tôi nghĩ bác chính trị gia sọt rác

Không đáng để tôi đổ mồ hôi

Làm thơ dù là thơ chửi bác

Đến thằng Mác, tổ sư bác

Cũng chưa đuợc tôi nguệch ngoạc vài câu

Thôi hơi đâu, mặc thây bọn văn sĩ cô đầu

Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn bác

Thế rồi tôi đi làm việc khác

Kệ cha bác...


Bài thơ mạnh như một làn roi công phẫn quất thẳng vào phế phẩm lịch sử. Không rụt rè, không khoan nhuợng, không sợ hãi. Một con người văn nhược muốn đem cái hào khí của mình thử thách cả một chế độ, hoặc là muốn "thí mạng cùi" để tìm cho ra một hơi thở tự do. Cái dũng của nhà thơ là ở chỗ ấy.


Đăc tính của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là nhất khí, là trực tiếp, là nói ngay vào mặt. Ông là người sở đắc về cái học Tây phương, nhưng xem trong văn chương của ông, người ta ít thấy bóng dáng của những tu từ, những ẩn dụ thường thấy trong văn chương Anh, Pháp. Chỉ là tiếng nói của đám đông Việt Nam bị dồn nén, bực bội một phút nào đó được bung ra. Phần nào, nó giống văn chương ông Tú Vị Xuyên khi ông tức cảnh sinh tình lúc thời buổi nhố nhăng, khi Pháp mới sang, xã hội Việt Nam đang xuống cấp. Ngày xưa Trần Tế Xuơng viết:


"Khách hỏi nhà ông đến

Nhà ông đã bán rồi

Vợ lăm le ở vú

Con tấp tểnh đi bồi!"


thì bây giờ Nguyễn Chí Thiện cũng nói thẳng:


"Chỗ tôi nằm, sáu mươi phân chiếu rộng.

Hai người bên một hủi, một ho lao".


Nếu phải kể ảnh hưởng trường phái, "tạng" thơ, hơi thơ thì Nguyễn Chí Thiện giây mơ rễ má với ông Tú Vị Xuyên nhiều nhất.


Tôi không nhớ rõ là tôi đã đọc ở đâu, nhưng tôi cho là chí lý nhận định sau đây: Tầm vóc Tú Xương sẽ nhỏ đi nếu ngoài những bài thơ tố cáo, ông không có những bài thơ nhớ nước, nhất là bài Sông Lấp:


Sông xưa rày đã nên đồng

Nơi làm nhà cửa nơi trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.


Điều này chứng tỏ Trần Tế Xương không chỉ là ngột người bất mãn với thời cuộc vì lỡ thời, lỡ thế, vì thiếu ăn thiếu mặc mà ông vẫn còn là nho sĩ, đau đáu trong lòng ý niệm "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Đó là nơi chốn "trở về", là hậu cứ an toàn cho những chuyến phiêu du tình cảm tưởng rằng kiêu bạc nhất, bông lông nhất. Diện mạo Trần Tế Xương đối với đời sau, nó nhân bản hơn và chúng ta cũng yêu mến ông hơn vì thế.


Bây giờ sau khi đọc rất nhiều thơ tố cáo thẳng tay, mọi chiều, mọi hướng của một chế độ thiếu vắng tính người, tôi cũng rất vui mừng khi được đọc "Tã trắng thắng cờ hồng" của Nguyễn Chí Thiện:


Sẽ có một ngày con người hôm nay

Vứt súng, vứt cùm, vứt cờ, vứt Đảng

Đội lại khăn tang, quay ngang vòng nạng oan khiên

Về với miếu đường, mồ mả gia tiên

Mấy chục năm trời bức bách lãng quên

Bao hận thù độc địa dấy lên

Theo hương khói mênh mông, tan vào cao rộng...

Đứng bên nhau trên mất mát quây quần

Kẻ bùi ngùi hối hận - kẻ bồi hồi kính cẩn

Đặt vòng hoa tái ngộ lên mồ cha ông

Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng

Tiếng sáo mục đồng êm ả

Tình quê tha thiết ngân nga...


Phải chăng đây chính là cái nền cho mọi dự phóng thi ca Nguyễn Chí Thiện. Nó cũng là cái đích phải tới. Tố cáo không thôi chưa đủ, tố cáo là tiền đề để sau đó qua phản đề tiến tới một tổng hợp đề. Tổng hợp đề của dân tộc Việt Nam phải là một kỷ nguyên không dựa trên căm thù mà dựa trên yêu thương. "Bao hận thù độc địa, bên mồ mả ông cha, sẽ theo khói hương bay vào cao rộng. Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng".


Đó cũng là ý nguyện của Nguyễn Chí Thiện. Trong "lời nói đầu" của chính ông viết khai mạc cho Hoa địa ngục 2 (mà một đồng nghiệp ở Sydney vừa đăng tải) ông đã viện dẫn lời Đức Khổng "Thi khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ hưng, khả dĩ oán", nghĩa là thơ giúp ta biết nhìn nhận, biết tập hợp, biết hưng khởi, biết oán giận. Phần khả dĩ quan, khả dĩ oán là tiền đề, khả dĩ quần là phản đề, khả dĩ hưng là tổng hợp đề. Theo "Tã trắng thay cờ hồng" thì biện chứng pháp của thời cuộc phải đi như vậy. Không biết tôi có chủ quan nhầm lẫn hay không?


Thưa ông bạn Nguyễn Chí Thiện,

Xin phép gọi vậy mặc dù nhất kiến. Kỳ này ông về lại Mỹ, xin ông cho phép tôi gửi lời thăm người bạn tù năm cũ Nguyễn Công Giân. Dù xa vẫn nhớ nhau nhiều lắm. Hi vọng một ngày nào được gặp lại bạn xưa, uống với nhau ly rượu và nhắc lại câu thơ cũng của một bạn tù - Tô Thùy Yên:


Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Còn chút rượu nồng xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này


Ký giả Lô Răng

(trích báo Ngày Nay)