|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Công việc «phỏng vấn» ông Đào Duy Anh, tác giả những bộ «Hán-Việt từ-điển», "Pháp Việt từ-điển", tôi đã định từ lâu và tuy tôi đã có dịp gặp tiên-sinh nhiều lần ở Hà-nội — khi thì tôi đi thăm tiên-sinh, khi tiên-sinh có thì-giờ lại thăm chúng tôi – nhưng không bao giờ chúng tôi thấy có được nửa giờ đề làm công việc ấy. Vào đến nhà, nói được vài câu chuyện thì hình như cái xe đạp để ngoài cửa thúc giục tiên sinh đi một nơi khác. Tiên sinh đi về công việc nhà in, thăm các bạn nhà văn, hoặc thăm một vài nơi cổ-tích ở gần Hà nội.
Thành ra, tuy có cái tính lười đi, vừa rồi vào dịp tết, chúng tôi cũng phải đi Huế đề được gặp tiên-sinh. Chúng tôi vào đến nơi thi tiên-sinh cũng vừa đi khảo sát ở vùng Nghệ an mới về.
Học giả Đào Duy Anh
- Đã lâu nay, không mấy khi tôi "ăn tết" ở nhà. Ở nhà tết nhất buồn quá nên tôi tự ý «phiêu-lưn», hoặc nhân nghỉ tết, đi xa đề thăm những nơi phong cảnh có tiếng, hoặc đi lùng các miền giàu cổ-tích đề tìm những dấu nguồn xưa hay lượm lặt sách nát, công việc mà trong những kỳ nghỉ hè, tôi thường làm luôn. Như năm nay, bãi trường, tôi liền đáp xe đi Vinh, và sáng ngày sau đi đến Trường-lưu Lai-thạch là quê Nguyễn huy Tự, tác giả sách Hoa-tiên ký, mượn được gia - phả, hành trạng, bút-tích và di-thảo của Huy-Tự, tựu-trung quí nhất là một bản Hoa-tiên- ký nôm, giống như bản gốc, chưa bị Nguyễn-Thiện nhuận sắc.
Bữa sau, tôi cùng với hai người bạn là Ng. th. L. ở Hà-nội và H. D. T. ở Vinh đi thăm kho sách nhà họ Cao ở Phủ-diễn, của cụ Cao xuân Dục, là kho sách xưa to nhất ở Trung-kỳ. Chúng tội đã được nhà ấy đặc-cách cho chúng soạn cả ra, và đến kỳ nghỉ hè này, chúng tôi sẽ trở lại đề xem một lần nữa.
Sau đó, chúng tôi đi thăm quê cụ nghè Nguyễn xuân-Ôn, lấy được hành trạng, di-văn và bút-tích.
Ngày mồng một, mồng hai tết, chúng tôi đi tìm gia-phả họ Hồ ở Ngũ-báo, huyện Quỳnh-lưu là quê quán Hồ quí-Ly. Chúng tôi tìm được gia-phủ họ chính và mấy chi ở trong vùng...
Ngày tết, mình là người lạ đến thăm, đến đâu cũng cứ hỏi xem gia-phả, thế mà không những không bị người ta mắng đuổi, lại còn được người ta đưa gia phả cho mình mượn đem về nữa, âu cũng là cái duyên của nhà khảo-sát...
Gốc-tích và sự nghiệp họ Hồ là một vấn đề lịch-sử quan trọng lắm; may ra nhờ ít tài liệu chúng tôi đã có và những tài liệu sẽ gắng kiếm thêm, cũng có thể rọi vào được ít nhiều ánh sáng.
-...
– Tôi sinh ngày 26 Mai 1905, tại làng Bi - kiền, huyện Nông cống (nay là phủ), tỉnh Thanh-hóa, là nơi cha mẹ ngụ - cư, nhưng trong giấy khai-sinh lại khai lầm rằng sinh ở chính quán là làng Khúc thủy, huyện Thanh-oai, tỉnh Hà-đông.
Lên bảy tuổi (túc 6 tuổi tây), tôi bắt đầu học chữ Hán với một ông đồ ở làng bên cạnh; cha mẹ cho học chữ Hán, mục đích theo đường khoa cử; được ít lâu ở huyện mở trường Pháp-Việt, nhưng cha mẹ tôi lại gửi ra Thanh-hóa cho học trong một năm với một ông đồ dạy vừa chữ nho vừa chữ quốc-ngử, rồi thấy xung quanh trẻ con đều bỏ học chữ nho theo học chữ Pháp, cha mẹ tôi cũng theo phong-trào, cho tôi nghỉ học chữ Hán vào trường Pháp-Việt. Bấy giờ tôi mười một tuổi (túc 10 tuổi Tây).
Trong bốn năm học chữ Pháp, chữ Hán quên dần.
Năm 1919 đậu Sơ-học tốt-nghiệp, lại theo bực Cao đẳng tiều học, đến năm 1923 thì tốt-nghiệp.
– Trong khi học ở bực Cao đẳng tiêu- học, tiên sinh đã thấy có xu - hướng về quốc văn chưa?
– Tuy trong bốn năm ấy cũng có học chữ nho và quốc văn, nhưng tôi chẳng chăm gì cả, chỉ chăm Pháp - văn... Bấy giờ, tôi chỉ là một người học trò giỏi, nhưng không có biệt tài, không có đặc- sắc . . .
Đậu tốt-nghiệp Cao-đẳng tiểu-học, vì nhà nghèo – khi mình đi học dầu là hưởng học bồng, cha mẹ đã phải vay mượn nhiều đề cung cấp cho mình về sách vở và quần áo – vả lại nhiều em còn phải đi học, nên tôi phải đi làm đề giúp đỡ cha mẹ, trả nợ và nuôi các em. Tôi đi làm giáo-học, được bồ đi Đồng-Hới (Quảng-Bình) cùng năm ấy.
Trước khi xin làm giáo-bọc, tôi xin làm thư ký ở trường Uyên-Bác ở Huế là trường đào tạo các quan-lại tân-học, tức là trường Hậu-Bồ cũ, vì sau khi thi đậu, nghĩ mình tuy đứng thứ nhất thứ nhì trong lớp, nhưng sức học của mình còn kém mà gia đình lại bắt buộc phải đi làm, cho nên muốn xin làm việc ở đó đề có thể lợi dụng thì giờ rảnh mà đọc sách ở tủ sách dồi dào của trường ấy. Nhưng xin không được, phải đi làm giáo-học.
Ở Đồng-Hới ba năm, ngoài thì giờ dạy học là cắm đầu vào việc tự-học. Một mặt học thêm chữ Pháp theo chương-trình trung-học của một trường hàm thụ ở Pháp. Một mặt học chữ Hán. Việc học chữ Hán rất khó khăn, thầy học không có, sách học thiếu. Nhờ khi nhỏ có học được ít năm, nay sẵn có một số chữ đã thuộc, bèn đem những bài chữ Hán ở tạp-chi Nam Phong cùng những tạp chí Tàu mượn của một người Hoa-kiều, hễ gặp chỗ khó thì đã có các ông cựu học thuộc chính phủ Nam-triều làm việc ở tỉnh mà mình đã kiếm cách giao-du bằng lối xướng họa văn thơ, chỉ vẽ cho.
Kề bấy giờ mới bắt đầu công việc tự-học và cũng bắt đầu làm thơ quốc-văn. Gọi là làm thơ, nhưng chẳng qua chỉ là chấp chữ thành câu chứ chẳng có thi-tứ gì cả.
– Tiên sinh có còn giữ được thơ làm vào thời bấy giờ ?
- Tập thơ ấy, sau tôi xem thấy tâm thường quá sức nên đã xé và tự hẹn không bao giờ làm thơ nữa.
– Tuy vậy, đó cũng là cái triệu-chứng tiên- sinh đã có xu-hướng về quốc văn. Về món này, bấy giờ có chủ tâm nghiên-cứu không ? Có nhờ bài thơ hay bài văn nào đăng báo đầu tiên không ?
– Cũng trong thời bấy giờ, tôi lần mò đọc những bài quốc-văn trong Nam Phong, thấy có thủ vị, cho nên trong khi học chữ Hán, tôi cũng học luôn cả quốc văn nữa. Tôi còn nhớ cái phần tự vựng ở cuối những tập Nam Phong đầu giúp cho việc học quốc văn của tôi nhiều lắm. Tôi đóng riêng một quyền vở nhỏ, chép tất cả những chữ trong mục ấy đề khi rảnh giở ra xem cho tiện. Đồng-Hới là nơi cô-tịch nên ít được bàn bạc về việc học cùng bạn bè; trong hai năm đầu chỉ học chứ không viết, đến năm thứ ba, nhân quan Hiệp-tá trí-sĩ Hoàng-Côn ở Đồng-Hới tạ thế, quan Công-sứ tỉnh ấy đọc một bài điều-văn, sau một người con cụ Hiệp có quen tôi nhờ tôi dịch bài diễn-văn ấy ra quốc văn. Bài văn dịch ấy đăng lên báo Trung Bắc Tân Văn, được các nhà thức giả ở Đồng-Hới khen là dịch được, đó là bài văn — văn dịch, — đăng báo đầu tiên của tôi.
Năm 1925, có những trào lưu tư tưởng mới...
Năm 1926, tôi bắt đầu viết báo chữ Pháp, thấy những bài của mình nói về thời-sự trong nước gửi vào báo Echo Annamite của ông Nguyễn phan-Long ở Sài-gòn được đăng cả, trong lòng bèn sinh ra hứng-thủ làm báo. Nhiệt huyết bây giờ khiến chỉ chờ có cơ-hội thuận-tiện là bỏ nghề gõ đầu trẻ ra góp sức với đời, – cái đời khổ sở, đau đớn, nhục nhã làm sao ! – chứa chan bao nhiêu hi vọng.
Kỳ nghỉ hè năm 1926, trái với mấy năm trước, tôi không về quê mà lại vào Tou-rane thăm một người bạn học, rồi thuê nhà ở bãi biển Mỹ Khê trong mấy tháng đề học và đọc báo trong cảnh thanh tỉnh. Ở Tourane bấy giờ, trào-lưu tư-tưởng mới đang bồng bột... Sau khi cụ Huỳnh thúc Kháng người Quảng-nam, được bầu làm viện trưởng viện Dân biểu thì trào lưu mới ấy lại càng bồng bột hơn nữa. Tôi được gặp cụ Huỳnh ở Tourane, giạo này cụ đang trù tính việc lập báo Tiếng Dân. Vì hâm mộ cụ là người già cả... mà bây giờ còn hăng hái ra gánh vác với thanh-niên một phần việc, tôi liền quyết định xin nghỉ dạy học đề ra giúp cụ Huỳnh. Nhưng nghề làm bảo tôi chưa biết gì nên phải vào Sài gòn ở ba tháng đề tập việc. Xong lại trở ra Tourane đề giúp cụ Huỳnh về việc lập Huỳnh thúc-Khang công-ty, và mua nhà in đề mở báo Tiếng Dân,
Tháng Aout 1927 báo Tiếng Dân ra số đầu, tòa soạn chỉ có cụ Huỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, và tôi làm trợ bút. Bấy giờ tôi vừa làm báo, vừa làm sách đề phổ thông những tư tưởng và học thuyết mới của phương Tây là những thứ mà trong năm 1925 cùng khi nghỉ ở Tou-rane và tập việc ở Sài gòn, tối mới thâu thái được. Cả mấy việc ấy, tôi đều làm rất hăng hải, có khi quên cả ăn ngủ.
– Tiên-sinh cho biết những sách ấy là những sách nào ?
– Các sách ấy là tập Quan-Hải Tùng Thư. những sách đầu tiên của toi. Sách xuất- bản không chạy lâm, nhưng hễ ai đọc là hoan-nghênh : người đọc phần nhiều là những người có chút nhiệt-tâm về thời cuộc và vì sách biên-dịch giới-thiệu những học thuyết mà họ không thể tìm kiếm ở những sách thường thấy.
-...
– Từ đầu 1928 đến cuối 1929, Quan-Hải Tùng-Thư ra được 19 tập sách nhỏ từ 50 đến 120 trang, tựu-trung có 7 quyển của mấy người đồng chí và 12 quyển của tôi. Quyển đầu là Trí khôn, quyền cuối là Tôn- giáo.
- Vì lẽ gì, sau này Quan Hải Tùng-Thư không ra tiếp nữa ?
– Năm 1930, tôi bỏ không làm bảo Tiếng Dân và công việc biên-dịch sách mới cũng không theo được một cách liên tiếp như trước nữa. Tuy vậy, cũng ra thêm được một quyển Chính-trị nước Pháp và một quyển Thế-giới sử. Vả lại, hồi bấy giờ tôi đang soạn Hán-Việt Từ-Điển.
- Tiên-sinh cho biết về quyền Từ-Điền ấy, bắt đầu soạn nó vào những trường-hợp nào, những phương-pháp làm việc của tiên-sinh.
- Sơ tâm, tôi không định soạn sách này. Những khi tôi học quốc-văn ở Đồng-hới, tôi thường chép riêng những danh từ chữ Hán đề học và tra cứu cho biết rộng nghĩa.
Khi tôi biên-dịch các sách Quan-Hải Tùng-Thư, ở sau mỗi quyển, tôi thường đề một mục từ khảo đề ghi những danh-từ chữ Hán khó nghĩa có dùng trong sách. Soạn những mục từ khảo ấy cũng tốn công-phu lắm. Tra cứu được chữ nào, tôi đều có chép riêng ra từng tập.
Những khi đọc sách báo, gặp chữ khó, tôi cũng thường chép riêng ra.
Năm 1930, theo việc buôn bán; thực ra thì chỉ có vợ tôi buôn bản. Tôi chỉ giúp vợ tôi mà thôi, cho nên có nhiều thì-giờ. Nhân đó, những tập biên chép về từ ngữ thấy cũng được khá nhiều. Tôi bèn nghĩ rằng nếu kê cứu thêm và đem sắp thành một quyền sách, có thể đem cái kinh nghiệm của mình mà giúp cho những người tự học như mình bớt được một bước đường khó khăn. Mục-đích biên-tập Hán-Việt Từ-Điển chỉ có thế thôi. Công-dụng của nó có rộng hơn thì cũng là ngẫu nhiên chứ khi làm sách ấy thời kẻ thư sinh 25 tuổi đầu không có xa vọng gì lắm.
-...
- Thế là bắt đầu làm.. làm đêm làm ngày, làm say sưa. Tuy công việc không có thú vị lắm, nhưng chí đã định thì lòng phải gắng. Thực ra thì chỉ gắng buổi đầu, chứ về sau thì "quen", sự gắng thành ra tự nhiên. Thường thường cử sáng dậy là làm việc suốt cho đến trưa, rồi ăn cơm xong lại làm suốt cho đến chiều, ăn cơm tối xong rồi mới đọc báo, đọc sách đến 11, 12 giờ. Một ngày phải làm việc đến 15, 16 giờ, mà làm Hán-Việt Từ-Điền có đến 12, 13 giờ. Nhưng bấy giờ sức đương dai, tuy không được khỏe lắm.
-...
– Tôi phải thuê một người thư ký - gọi là thư-ký cho oai — giao cho người ta sắp đặt lại thành "fiches", những tập tôi biên chép về từ-ngữ trong mấy năm trước. Tôi lại mượn những tập báo chí, nhất là Nam-Phong và Hữu-Thanh, giao cho vợ tôi và người thư ký đọc hết đề trích ra tất cả những danh từ chữ Hán, rồi chép thành fiches theo thứ tự a b c. Tôi xem các fiches ấy, lựa lọc lại nhiều lần, đem những sách từ điền của Tàu như:
Từ-nguyên
Vương vân ngũ đại từ-điển
Quốc-văn thành ngữ từ điển
Trung-hoa bách-khoa từ-điển
Học-sinh từ-điển
Hán-Anh từ-điển
Hán-Pháp từ-điển
cùng là :
Từ-điển Génibrel
Từ-điển Paulus Của
đề đọc mà đối-chiếu với các fiches và biên thêm những chữ thiếu vào.
Xong công việc đối - chiếu ấy là có thề chắc rằng không thiếu mấy chữ nũa, thể mà vẫn cứ thiếu nhiều mới khổ chứ, tôi lại giao cho thư-ký chép ra fiches mới, vừa chép vừa sắp đặt lại tạm theo thứ tự a b c, rồi tôi lại phải soát lại xem họ có chép sót không. Sót lại thêm vào.
Xong việc ấy, bây giờ phải đem các fiches ra mà dịch nghĩa từng chữ, từng tử- ngữ. Công việc này khó khăn và tỉ mỉ nhất. Ngoài những sách từ điển kề trên kia dùng để tham-khảo, thỉnh thoảng tôi lại phải nhờ đến các sách Quảng sự loại, Bội Văn vận phủ. Cố sự quỳnh lâm đề tra thêm điển cổ.
-...
– Bây giờ, tôi không nhớ là những công việc ấy làm trong bao lâu. Tôi chỉ nhớ là có nhiều khi bận lắm, tôi phải bỏ cả việc đọc sách đề học thêm mà dùng vào Hán- Việt Từ-Điển đến cả 15, 16 giờ mỗi ngày.
Khi định nghĩa và biên chép tinh tế rồi, tôi lại đưa nhờ cụ Phan Sào Nam, biệt-hiệu là Hạn-Mạn tử, và một ông bạn vong niên là Lâm - Mậu, biệt hiệu Giao - Tiều, nhuận chỉnh cho ; tôi nhờ hai bực tiền bối ấy giúp cho được nhiều lắm. Nay hai người đều đã quá cố rồi, nhân có dịp này nhắc đến hai tên quí mến ấy, tôi xin thành thực thanh minh rằng không có hai người ấy thì sách Hán-Việt Từ Điển của tôi không thẻ thành binh mà thoát thai được.
Tôi tự nhận rằng cứ cách làm việc của tôi đó thì chưa có thể dùng tài liệu cho đầy đủ được, cho nên cuốn sách ấy còn là giản lược và không khỏi có nhiều điều thiếu sót. Nếu có cơ hội tái bản, tôi sẽ gắng dùng hết cả những tài-liệu còn thiếu và sẽ thêm bớt, sửa chữa cho thành một quyền sách nhất định…
– Trong khi làm, có lúc nào tiên sinh thấy nản không ?
– Khi làm sách ấy, tôi thấy cái gì cũng khó khăn, nhưng không hề nản. Song làm lúc bực quá. Vì nhà hẹp, bàn làm việc của tôi phải đặt ở cùng một gian với cửa hàng sách «Vân - Hòa» của vợ tôi. Vả chăng nhà hàng không có người làm công, tôi phải ngồi đó đề phòng khi vợ bận việc thì mình trông hàng giùm. Việc tỉ mỉ mà phải làm ở giữa gian hàng có lúc náo-nhiệt, không khỏi có những người khách hay thóc mách đi lại sau lưng đề nhìn xem mình làm cái gì. Ở hoàn cảnh ấy, mình phải tập cách ngưng-thần. Nhờ vậy, có khi người ta la hét ở bên tai mà tôi không đề ý... Nhưng cũng vì thế mà sinh ra đãng trí. Có lúc đương tìm định nghĩa một chữ rất lôi thôi mà có người vào mua một ngòi bút một xu cũng phải bỏ việc đó đứng dậy bán giùm cho vợ đi vắng.
Đến nửa năm 1932 thì thành cảo. Những nỗi khó khăn trước, tự sức mình đã thắng được cả, nhưng cái khó khăn hơn là việc in.
Sách này bấy giờ in thì chỉ tốn sáu, bảy nghìn, nhưng vốn in không có lấy một đồng thời làm sao mà in được ? Song tôi tin chắc rằng sách này ra thì được hoan-nghênh, vì nó là sách cần cho người ham học. Tôi bèn dùng cách bán dự-ước (souscription) đề thu trước một ít tiền mà đặt cọc cho nhà in. Muốn in cho mau, tôi chia sách ra làm hai quyển, nhờ nhà in Tiếng-Dân ở Huế in quyền Thượng, nhà in Lê văn Tân ở Hà-nội in quyền Hạ, Khi giao-thiệp việc in xong thì quả nhiên những người dự ước đầu tiên đã gửi tiền về, nhờ thế mà có được mấy nghìn bạc đặt nhà in.
Quyền sách ấy mà in được, tôi hoàn toàn nhờ vào sức ủng hộ của tư nhân, của những người đồng-bào ham học, nhất là những người làm việc ít lương sẵn lòng tín nhiệm tôi mà đặt tiền trước cho. Hạng người ấy, khi nào tôi cũng coi là bạn thân của tôi; mà sau này, đến khi ra sách Pháp-Việt Từ- Điền, tôi lại cũng nhờ họ nhiều lắm.
Khi sách ra rồi thì bán có hơi chậm, không có tiền trả nhà in, tôi đành phải đi "bản dạo" một vòng trong khắp Nam Bắc, nhờ thể mà khỏi nợ nhà in. Từ khi bắt đầu in Hán-Việt Từ-Điển, tôi đã biết rằng sách ấy cần dùng thi không sợ không bán được. Bởi vậy, dầu phải bán dạo, tôi cũng không hề nản chí.
- Hiện nay đang có trào lưu quay về cổ- điển, việc tái-bản quyền Từ-Điển của tiên sinh là một việc thiết- yếu...
– Chúng tôi cũng biết vậy, nhưng hiện nay, sau khi soạn bộ Pháp-Việt Từ Điển, nghĩ đến những lúc cặm cụi làm lại bộ ấy cho đầy đủ, tôi chán lắm.
- Tiên-sinh cho biết về việc soạn bộ «Pháp-Việt Từ-Điển »
– Bộ này, tôi cho là cũng cần thiết cho thanh-niên ta, thứ nhất là về việc giúp cho những người xưa nay chỉ học Pháp văn, muốn học quốc văn. Vì sao tôi làm sách ấy, tôi đã nói ra trong bài tựa rồi.
- Phương-pháp làm việc của tiên sinh như thế nào ?
– Sách này tôi làm dễ hơn sách Hán-Việt Từ-Điển, vì soạn quyền trước, mình phải tìm lấy từ ngữ cho đủ, rồi lại phải sắp thành thứ tự theo chữ quốc ngữ và theo chữ Hán, còn Pháp-Việt Từ Điển chỉ cần lấy mấy quyền từ điển của Pháp làm căn cử, rồi đem dịch thôi.
Tôi lấy sách Larousse Universel và Larousse du X.Xe siècle làm gốc. Về việc phiên dịch, có tham khảo nhiều sách và nhiều từ-điển chuyên-môn, nhất là các sách học về động-vật-học và thực vật học xuất - bản ở Đông-Dương, các từ điển cũng nhiều: Pháp- Việt Từ Điển của Trương Vĩnh-Kỷ, của Val-lot, của Mausseron, Pháp Hoa Từ Điển của ông Tiêu Tử Cầm, Anh Hoa Đại Từ-Điển của ông Hoàng sĩ-Phục, Phật-Hòa Đại Từ- Điển của các ông Quang-Lai, Triết Sĩ...
...
– Tôi bắt đầu biên tập sách này vào nửa sau năm 1932, nhưng ý định đã có từ lâu và đã dự-bị từ năm 1928, tức là khi đang làm Quan Hải Tùng-Thư. Trong lúc phiên dịch những sách về tư tưởng và học thuyết phương Tây, tôi đã nhiều lần nhớ đến quyển sách Pháp-Hoa Từ-Điển của Tiêu Tử Cầm (Thương vụ ấn thư quán, – Thượng-Hải) đề dịch chữ Pháp ra quốc văn. Bấy giờ có một người bạn vong niên là Nguyễn đan Quế — hiện nay ông là một người ẩn sĩ ở Thanh-hóa, tự cày ruộng lấy mà ăn – cùng làm việc tòa soạn báo Tiếng Dân, tôi bàn với ông ấy cùng nhau dự vào bộ Pháp Hoa Từ Điển ấy mà làm một bộ từ-điển Pháp Việt nhỏ. Chúng tôi đã bắt đầu làm được một ít, nhưng sau ông Nguyễn đan Quế trở về Thanh mà tôi thì bận nhiều việc, không thể làm được. Song thỉnh thoảng, khi rảnh, tôi cũng đem ra làm tiếp...
Đến năm 1930 thì bắt đầu làm Pháp-Việt Từ-Điển. Trong mấy năm 1930-31-32, tuy không chuyên, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng đem ra làm mấy trang, coi như một việc giải trí. Mãi đến cuối năm 1932, công việc mới quyết định và làm chuyên. Bấy giờ, tôi làm rộng hơn trước nhiều. Tính ra công việc làm tám năm, nhưng ba năm ruỡi đầu làm lơ láo, đến bốn năm rưỡi sau mới làm chuyên-cần được.
Việc làm từ-điển này ít vất vả hơn từ-điển trước, một là hàng sách đã thuê được rộng, có chỗ đề bàn làm việc kín đáo và nhờ được một đứa em trông hàng, tôi không phải bận tâm đến việc buôn bán; hai là vì có dạy học nên đầu óc không đến nỗi túi bụi vào đấy.
Giữa năm 1936 thì thành cảo, cũng nhờ cách bản dự-ước và nhờ những người đồng bào ham học ủng hộ nên mới in được. In từ năm 1936, đến cuối năm 1939, đầu năm 1940 mới xong.
Làm sách này, chỉ một việc biên dịch nhưng gặp những chữ khó, lắm khi tìm kiếm và suy nghĩ cũng vất vả lắm. Cũng có dùng fiches, nhất là đề ghi những từ ngữ về chuyên-môn, đề tra cứu cho rộng mà dịch, nhưng ít fiches hơn quyển trước. Khó nhất là những từ ngữ về chuyên-môn và khoa học, những tên chim muông, cá, sâu bọ, cây cỏ v. v... Tôi chỉ xem nó là một cuộc thí-nghiệm, không biết rồi tôi có chí, có gan ngồi mà sửa lại cho nó đầy đủ nữa không. Xin thú thực rằng những lúc cặm cụi vào bộ sách ấy, tôi chán lắm. Không phải tôi đâm ra nhác đâu, làm những việc khác, tôi vẫn có thể cặm cụi như thế được, nhưng việc làm từ-điển khiến tôi phải sợ.
– Tiên sinh có soạn sách "Việt-Nam Văn-Hóa Sử-Cương»?
– Tôi làm quyền này là nhân có dạy quốc văn ở trường tư Thuận-Hóa. Sau khi trong chương trình Cao đẳng tiểu học có thêm môn Việt-Nam văn-hóa, tôi tự hỏi không biết sẽ dạy thế nào? Tôi nghĩ luôn đến cả những nỗi khó khăn của các bạn đồng nghiệp. Tôi bèn đi tìm kiếm tài liệu để dạy và nhân-thể tổ-chức các tài liệu ấy lại thành một quyền sách có thể giúp cho các thày dạy quốc văn như mình đỡ công tìm kiếm. Vì ngày thường đọc sách, tôi hay ghi chép; những sách về văn hóa và lịch- sử nước nhà, tôi cũng hay tìm tòi, cho nện đến khi tìm tài-liệu thì có dễ dàng. Nhưng tôi cũng không thỏa mãn về sách ấy lắm, chỉ coi nó là một mớ tài liệu đề cho những người muốn soạn bài «Việt-Nam văn hóa" dùng mà dạy học trò.
Trước kia, tôi định sau này sẽ viết lại sách ấy nữa, vì thấy rằng quyền sách Việt-Nam văn-hóa sử, muốn được đầy đủ thì phải tổng hợp những kết-quả của các cuộc nghiên-cứu, phân tích về văn hóa, mà việc nghiên cứu, phân tích chưa có thì chưa nên vội làm sách tổng hợp. Quyền sách của tôi đó, tự tôi cho chỉ là ghi cho tôi đại-khái những vấn đề cần phải chia ra mà nghiên cứu kỹ càng. Tôi sẽ tùy tiện lựa chọn những vấn- đề có thú vị trong ấy mà nghiên cứu.
- Và tập "Khổng-Giáo Phê-Bình Tiểu- Luận» ?
– Như trong bài tựa, tôi đã nói, nó chỉ là một bài diễn thuyết chưa đọc. Nguyên một người bạn chủ trương một hội học mời tôi làm một bài diễn-thuyết ở hội ấy về Khổng-giáo, tôi nhận lời và viết xong cả rồi, nhưng sau tôi nghĩ đem bài ấy ra đọc có điều không tiện. Số là kiến-giải của tôi đối với Khổng-giáo có nhiều điều không hợp với thuyết chính-thống, cần phải biện-minh kỹ càng thì người nghe mới khỏi cho là quái lạ. Muốn biện-minh kỹ càng, không thề bằng nghị-luận không mà cần phải dẫn sách nữa. Đứng trên diễn đài mà cử chứng-dẫn điển-tích không ngớt thì làm sao khiến người nghe không chán được? Bởi vậy, tôi mới lấy cảo bài diễn văn ấy viết thêm ra thành sách đem in.
- Tôi định khi nào tư tưởng của tôi thật chín – khi đã đọc được nhiều sách về Khổng-giáo nữa - tôi sẽ viết kỹ sách này, lấy Khổng giáo làm trung tâm, nhân đó nghiên cứu đến cả cái trào lưu tư tưởng trọng yếu của Trung quốc. Nhưng đó chỉ là dự định, không biết có thì giờ mà làm việc ấy hay không, vì hiện nay tôi đương bận nghiên-cứu về sử học.
- Tiên - sinh sắp cho xuất - bản sách "Trung-Hoa Sử-cương» ?
– Sách này là một quyền sách biên-dịch, nó chỉ có tính cách phổ thông đề bổ khuyết một chỗ thiếu trong học-giới ta. Làm sách ấy, không phải dụng công nhiều lắm.
– Ngoài ra, tiên-sinh còn dự định soạn những sách nào ?
– Kể dự định thì nhiều, nhưng còn phải tùy lực. Tôi đã soạn xong tập Khảo luận về Kim Vân-Kiều, tức là những bài giảng về quốc văn của tôi góp lại, rồi sắp đặt thành đoạn lạc. Nó chỉ viết riêng cho một hạng độc giả là học-sinh. Tôi vốn không phải là nhà phê-bình văn-học nên muốn cho sách ấy có tính chất khảo cứu hơn là phê-bình.
- Hình như tiên-sinh có dự-bị soạn quyền "Văn Pháp Việt Nam» và một quyển nói về nhà ái-quốc Nguyễn trường Tộ?
- Tôi có viết ít bài về văn-pháp đăng trong tạp-chí Tri-Tân, nhưng chỉ là những bài dùng dạy học-trò. Tôi in ra đề khêu gợi độc giả bàn về văn-pháp. Nhưng thấy chẳng ai bàn nên tôi bỏ không đăng tiếp nữa. Còn soạn hẳn thành một tập sách thì tôi chưa có ý định, vì tôi cho rằng về văn-pháp, chúng ta hiện nay cần phải nghiên-cứu những vấn đề đặc-biệt cho nhiều, rồi sau này, và chắc còn lâu, mới có thể tổng hợp các vấn đề đặc biệt lại mà làm văn pháp được.
- ...
– Những quyền văn-pháp đã ra, tôi đều bất-mãn ý cả.
Còn tôi cũng có định soạn một quyển về Nguyễn trường-Tộ, thu thập tài-liệu đã lâu và đã được nhiều...
– Tiên-sinh đang nghiên cứu về sử, chắc để soạn một bộ Nam sử ?... Ý tiên sinh về những quyển Nam-sử đã có thể nào, và tiên- sinh cho biết ý kiến tiên-sinh đối với trào-lưu sử-học ngày nay.
– Tôi vốn khi nhỏ thất học, chỉ nhờ công tự học mà biết ít nhiều. Nhưng vì tự học cho nên sự học thiếu căn-bản. Bởi thế cho nên những sách tôi làm bấy lâu nay không có giá-trị gì. Nó chỉ là chứng cứ của một nền học vấn non nớt và hổ-lốn. Nhiều khi tôi soát lại những việc đã làm thì tôi tự thẹn, nhất là thẹn rằng cái sự nghiệp văn học non nớt và hồ lớn ấy đã tạo cho mình một cái hư danh mà tôi cho là rất nặng-nề. Như hai bộ từ điển, người ta cho là những sách có ích, có giá- trị nhất của tôi thì tôi lại cho nó là tầm thường lắm; mỗi khi tôi nghe người ta nhắc đến thì tôi lại ngượng.
Tuồi mỗi ngày một lớn, tôi nghĩ nếu cử đề tinh-thần tản mát ở nhiều phương-diện mãi thì rốt cuộc, chẳng môn gì mình học kỹ được. Khi trẻ thì cần học đủ mọi môn đề rộng thu trí-thức, nhưng thế nào rồi cũng phải chuyên chú vào một môn gì. Mấy lâu nay, tôi chỉ mới học cốt cho được nhiều, ngày nay nghĩ lại mới lo đến chuyên-môn.
Tôi đã xét kỹ các môn đã học, thì duy có môn sử học, sử học chính và sử học văn- chương. Tôi muốn viết một bộ Việt-Nam Sử-Cương, nhưng có lẽ dăm mươi năm nữa mới xong. Quyền sử ấy, tôi chỉ định viết đại cương cuộc tiến hóa của dân-tộc ta trong các thời kỳ, nhưng muốn viết đại cương cuộc tiến hóa ấy, cần phải giải quyết nhiều vẫn đề sử học còn lờ mờ, cho nên tôi còn cần đọc sách và học nhiều lắm mới viết được.
Gặp những vấn-đề chưa giải quyết được thì tôi cũng đặt vấn-đề, tức là trình bày những vật-liệu đề giúp cho sự nghiên-cứu về vấn-đề ấy.
Về sử học, ngoài sự đọc sách, tôi còn đi tìm di-tích xưa, vì có nhiều vấn đề phải nhờ khảo-sát cổ-tích mới biết được chứ các tài- liệu hiện có chưa đủ. Mới rồi đi Nghệ-an là tôi cốt khảo-sát về truyện Hoa-Tiên (lịch- sử văn chương) và gốc tích Hồ quý-Ly.
Còn một điều cần thiết là dịch những tài liệu trọng yếu bằng chữ Hán, nhất là những tài-liệu viết bằng tay. Hiện tôi đương đính chính, phiên-dịch và chú-thích hai bộ sách chữ Hán, tài-liệu căn bản của lịch-sử về miền Trung-Kỳ, là bộ Ô-Châu Cận-Lục và Phủ- Biên Tạp-Lục. Dịch và chú-thích xong, tôi sẽ kiếm cách in đề làm sử liệu cho các nhà muốn nghiên-cứu lịch-sử.
- ...
– Về sử-học, ngày nay ta đã thấy có nhiều người nghiên-cứu, đó là một điều đáng mừng. Nhưng tôi xét phần nhiều các nhà sử học ta dùng tài-liệu không được thận-trọng.
Một là không chịu tìm tài-liệu gốc, chỉ dùng những tài-liệu ngọn, những tài - liệu đó người khác đã chế hóa đi mất rồi,
Hai là không chịu phê-bình tài-liệu mình dùng, hễ sách hay người nói trước thế nào liền cho thế là đúng chắc.
Ba là hay tin những lời truyền thuyết, những lời do miệng người kể lại, mà nêu lên cái tiếng to-tát là «sử-liệu sống".
Bốn là hay có thiên-kiến... nhưng nói thế nào cho hết...
Dầu sao, như tôi đã nói, ta cũng đáng mừng rằng học-giới ta ngày nay đã chú-ý về sử học.
Chúng tôi đi thăm, kể đến Đào tiên-sinh, là được tám nhà văn. Đi đến đâu, chúng tôi hỏi nào ngày sinh tháng đẻ, quê quán... những điều không nên hỏi. Đã nhiều lần, những câu chuyện của chúng tôi làm cho nhà văn phải ngần ngại... Chắc các ông đã cho chúng tôi là tỉ-mi.
Còn bạn đọc, cỏ người sẽ cho công việc của chúng tôi làm quá sớm và những lời nói về mình của nhà văn, vì tính cách của nó, không được nhũn nhặn lắm...
Trách như vậy, chúng tôi biết vậy.
Nhưng nghĩ. . .
Hãy nói riêng về câu chuyện của Đào tiên- sinh. Cái đời của tiên sinh với bao nhiêu ngày, tháng, năm cần cù học, học rồi đê soạn những bộ sách như bộ Hán-Việt Từ- Điền, Pháp-Việt Từ-Điền, Khổng Giáo Phê-Bình Tiều-Luận, Trung-Hoa Sử-Cương, giúp ích bao nhiêu cho sự tiến-bộ của quốc văn và sự học của đồng-bào. Thế mà đến khi có những bộ sách ấy rồi, còn cho cải sự nghiệp của mình "chỉ là chứng-cử của một nền học vẫn còn non nớt và hồ-lốn...» Và nay, khi đã có 37 tuổi trên vai, tiên-sinh còn bắt đầu học, học chuyên-môn, hi-vọng sau này xây dựng được một sự nghiệp vững chắc hơn.
Cái đời học của tiên-sinh chẳng đáng làm gương mẫu và câu chuyện của tiên-sinh chẳng là một mối suy nghĩ cho phần đông thanh-niên ta hay sao?
Nếu quả có, chúng tôi tưởng những lời trách trên không được hoàn toàn chính đáng.
- Cuộc phỏng vấn Ông Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu Lê Thanh Phỏng vấn
- Cuộc phỏng vấn Ông Vũ Đình Long Lê Thanh Phỏng vấn
- Phỏng Vấn Ông Vệ-Thạch Đào Duy-Anh Lê Thanh Phỏng vấn
- Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách Lê Thanh Phỏng vấn
- Cuộc Phỏng Vấn Các Nhà Văn: Ông Nguyễn Văn Tố Lê Thanh Phỏng vấn
- Cuộc phỏng vấn Ông Lệ Thần Trần Trọng Kim Lê Thanh Phỏng vấn
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |