|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Giáo Sư Huỳnh Văn Lang
(1922 - 12.3.2023)
Học Xá: Giáo Sư HUỲNH VĂN LANG đã vĩnh viễn ra đi ngày Chúa Nhật 12 tháng 3 năm 2023 tại Bắc California, thọ trên 101 tuổi.
Ông đã từng là công chức cao cấp của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, một nhà kinh doanh lớn ở Sài Gòn và là một nhà văn hóa giáo dục có nhiều thành tích tốt đẹp.
Tính ông ngay thẳng, bộc trực, khí khái, thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, với lịch sử, văn hóa dân tộc.
Ông có nhiều công phu sưu tầm, nghiên cứu viết lách, đem lại sự công bằng, rọi thêm ánh sáng cho một số vấn đề liên hệ tới lịch sử và cuộc sống của người dân Việt. Ông ra đi để lại một gia tài văn hóa đồ sộ, một lòng yêu nước vô biên và một tinh thần chống chủ nghĩa vô thần Cộng Sản kiên trì.
Dưới thời đệ I Cộng hoà, nhà văn Huỳnh văn Lang được giới chánh trị và hành chánh công quyền biết đến nhiều vì ông đã đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Viện Hối đoái Quốc gia, trực tiếp dưới quyền của Tổng thống Ngô đình Diệm, lại là Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc việt của Đảng Cần Lao, làm việc trực tiếp với Cố vấn Ngô đình Nhu. Về Giáo dục ông dạy học tại Đại học Sư phạm Saigòn, hội trưởng hội Văn hoá Bình dân và điều hành một hệ thống trường Bách khoa Bình dân trên những thành phố và tỉnh thị.
Năm 1957 ông cùng một nhóm thân hữu chủ trương tờ "Tạp chí Bách khoa" và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo nầy cho đến 1963 là năm mà chế độ Ngô đình Diệm sụp đổ. Ông bị nhóm tướng lãnh trong Hội đồng Cách mạng bắt giam vì bị buộc tội làm kinh tài cho gia đình họ Ngô. Không có bằng cớ kết tội, được thả ra vào năm 1966. Ông Huỳnh văn Lang xoay qua hoạt động về lãnh vực tài chánh và thương mãi và ông đã thành công trên địa hạt nầy.
Cuốn "Nhân chứng một Chế độ" mà ông đã hình thành trong thời gian bị giam giữ tại tù Tam hiệp Biên hòa đã được Hội Văn bút V.N. chấm đạt giải nhứt vào năm 1972.
Trong vòng 5 năm trở lại đây, ông Huỳnh văn Lang xuất bản nhiều tập Hồi ký như "Cờ Bạc" (1998) dày khoảng 270 trang, đề cập đến các thú vui chơi ở miền Nam như "đá cá, đá gà, đánh phé...", "Chuyện đường rừng" (1999), dày khoảng 520 trang khổ lớn, kể lại những kinh nghiệm bản thân về thú săn bắn, nhứt là săn bắn cọp dữ trong các bản làng ở Cao nguyên, "Nhân chứng một Chế độ" dày khoảng 1500 trang (2000). Đây là hồi ký chánh trị kể lại nhiều bí ẩn lịch sử trong thời đệ I và đệ I I Công hoà, giúp đọc giả biết thêm nhiều điều mới lạ về cá tính của TT Diệm, Cố vấn Ngô đình Nhu, về tướng Trần thiện Khiêm, về Đại tá Phạm ngọc Thảo mà cho đến nay khuôn mặt nầy vẫn còn là một ẩn số. Và mới đây ông xuất bản tập biên khảo "Công chúa Sứ giả" (2004), dày 261 trang, viết về lịch sử, đề cập đến những cô Công chúa được gả đi cho các nước lân bang vì mục đích chánh trị như Công chúa Huyền Trân, Công chúa Ngọc Vạn...
Tác phẩm mới nhứt là cuốn "Có những sự kiện lịch sử cần phải xem lại" được ông gọi là "Việt Sử Khai Tâm", dày khoảng 332 trang (xuất bản năm 2004). Đây là tác phẩm mà người viết muốn được giới thiệu nhiều đến quý đọc giả, nhứt là những vị thường quan tâm đến những đề tài lịch sử.
Hồi còn theo học ban cử nhân văn chương Đại học Văn khoa Huế (1962-66), Giáo sư Phạm việt Tuyền và giáo sư Thanh Lãng thường bắt các sinh viên thuyết trình về các nhóm văn học như "nhóm Sáng tạo" với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn quốc Sĩ; "nhóm Bách khoa" với Huỳnh văn Lang. Võ Phiến, Nhguyễn hiến Lê; "nhóm Văn hoá Ngày nay" với Nhất Linh, Nhật Tiến, Duy Lam; "nhóm Nhân Loại" với Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc; "nhóm Quan Điểm" với Nghiêm xuân Hồng, Vũ khắc Khoan, Mặc Đỗ...Và tôi được biết đến ông Huỳnh văn Lang với nhóm Bách khoa của ông từ dạo đó.
Nhưng phải nói là ấn tượng của tôi có về con người nầy do bác Trần xuân Minh sắp xếp qua những cuộc tiếp xúc trực tiếp khi ông có dịp ghé San José là những ấn tượng đẹp khó mà quên được. Quả thật ông là người đang đuổi bắt thời gian một cách hối hả. Với tuổi đời trên 80, ai cũng mong tìm thú tiêu dao, chơi đùa cùng cháu chắt, thế mà ông lại miệt mài trong sách vở, làm việc bất kể giờ giấc để hoàn thành cho được tập "Việt Sử Khai Tâm" mà ông đã để hết tâm huyết của mình vào đó như là lời nhắn gửi lớp trẻ ở hải ngoại đừng bao giờ quên nguồn cội của mình:
"... người viết còn có tham vọng đọc lại và kể lại cho con cháu thế nào mà chúng vừa lĩnh hội được vừa chấp nhận được. Vì có như thế mới mong chúng tiếp tục truyền đạt dài dài cho nhiều thế hệ mai sau nữa. Cái tham vọng đó bắt buộc người viết phải chọn một hình thức trình bày sao cho thích nghi, tức là hình thức kể chuyện, không hư cấu mà cũng không giáo khoa, nguyên tắc chỉ đạo là hợp tình và nhứt là hợp lý". (HVL, "Việt Sử Khai Tâm", Hoa kỳ, 2004, tác giả xuất bản, tr. 22).
Trong ngành nghiên cứu sử, đề tài liên quan đến thượng cổ sử quả thật là địa hạt mà ít ai muốn bước vào. Từ khi trường Đại học Văn khoa Saigòn mở cấp cao học và cho tới khi có khóa tiến sĩ sử học đầu tiên (1972-75), với bảy nghiên cứu sinh (Tạ chí Đại trường, Trương ngọc Phú, Đỗ phan Hanh, Nguyễn hữu Hùng, Nguyễn văn Tích, Trần nguyên Khôi, Lê đình Cai) thì không có một đề tài luận án tiến sĩ nào liên hệ đến giai đoạn cổ sử cả. (đa phần viết về cận đại sử và hiện đại sử). Nói như vậy để thấy là viết về thời thượng cổ sử hay giai đoạn hình thành đầu tiên của quốc gia chúng ta là điều không dễ dàng gì vì nó còn ở trong vòng tối tăm của sử liệu và ở trong khối mịt mù của huyền thoại. Lại nữa, viết như thế nào? đối tượng người đọc là ai? Một công trình biên khảo sử mang tính hàn lâm chắc chắn là "khô khan" và khó đọc đối với đại chúng, nhưng lại rất cần cho các nhà nghiên cứu. Còn viết cho đại chúng phổ thông mà vẫn khăng khăng sữ dụng những ngôn từ chuyên môn thì làm sao đọc giả có thể lĩnh hội được dễ dàng trong khi mục đích của ngành sử học là giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ hiện nay và mai sau. Ông Huỳnh văn Lang đã thấy rõ yếu tố nầy trong tác phẩm "Việt Sử Khai Tâm" của ông.
Trước đây, hồi còn đi học, chùng tôi có thể làm quen với các tác phẩm sử nói về nguồn gốc dân tộc Việt, về sự hình thành của xứ Văn lang đầu tiên trên tiến trình dựng nước và giữ nước, như "Việt Nam Sử Lược" của cụ Trần trọng Kim, "Quốc hiệu nước ta" (?) của GS Bửu Cầm, "Việt Nam thời khai sinh" củ L.M. Nguyễn Phương... Dĩ nhiên khi có trình độ Hán ngữ cao, sinh viên được khuyến khích tìm đọc "Việt sử Tiêu án, từ Hồng bàng đến ngoại thuộc nhà Minh" của Ngô thời sĩ; "Đại việt Sử ký Toàn thư" của Ngô sĩ Liên và các sử thần đời Lê; "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" của Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Nếu biết ngoại ngữ người sinh viên có thể tiếp cận thêm với các tài liệu tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy thế, những tài liệu sử nói trên không phải dễ đọc (dù là viết bằng tiếng Việt) vì đa phần các tác phẩm đó đều mang tính hàn lâm của các công trình nghiên cứu, ít có một tác phẩm nào nhằm viết dưới dạng kiến thức phổ thông cho đại chúng tìm hiểu. Ở hải ngoại sách sử viết về thời đại lập quốc của chúng ta càng hiếm hoi hơn, chỉ có cuốn sách "Lịch sử dân tộc Việt nam" của GS Phạm cao Dương (quyển I "Thời kỳ Lập quốc" , Truyền thống Việt, xuất bản tại Hoa-kỳ năm 1987), nhưng mang tính hàn lâm cao, nên ít phổ biến trong đại chúng. Bây giờ ông Huỳnh văn Lang đang đáp ứng nhu cầu đó qua "Việt sử Khai tâm" mà người viết vừa đề cập đến.
"Có những sự kiện lịch sử cần phải xem lại" (Việt sử Khai tâm) được ông Huỳnh văn Lang trình bày thành 8 chương, đề cập đến mốc giới năm 2195 trước Công nguyên với sự xuất hiện của xứ Giao chỉ (chương I), tìm hiểu dân tộc Việt nam thuộc chủng tộc nào? (chương II), giới thiệu về nước Văn Lang với vua Hùng dựng nước (chương III), kế đến là nước Âu Lạc dưới thời Thục An Dương vương (chương IV), rồi nước Nam việt dưới thời Bắc thuộc lần thứ nhất (chương V), thời Trưng vương nước Giao chỉ (chương VI), qua nước Vạn Xuân dưới thời Bắc thuộc lần thứ hai (chương VII), cuối cùng là giới thiệu đến nước Nam việt dưới thời Bắc thuộc lần thứ ba (chương VIII) và kết thúc ở mốc giới 939 là năm Ngô Quyền xưng là Nam Việt vương và đóng đô ở Cổ Loa thành.
Nhìn chung "Việt sử Khai tâm" là một tác phẩm viết về lịch sử thời kỳ dựng nước hay nói khác đi là thời kỳ khai sanh của nước Việt nam ngày nay. Lối văn được sữ dụng trong VSKT là lối văn phổ thông, dễ hiểu, thích hợp với trình độ giới trẻ hải ngoại, nếu thế hệ nầy chịu khó trau dồi tiếng Việt. Tác giả VSKT tránh dùng những từ ngữ có tính bác học hay lối viết hàn lâm của những nhà nghiên cứu học hay lối viết hàn lâm của các nhà nghiên cứu nên tôi nghĩ cuốn sách nầy dễ được đại chúng đón nhận nhiều hơn.
Mặc dù nhà văn Huỳnh văn Lang trong "Lời nói đầu" đã khiêm tốn tự xác định "người viết không phải là nhà văn, lại càng không phải là sử gia, chỉ là một người đọc sử..." (HVL sđd, tr 19). nhưng khi đọc xong tác phẩm VSKT, không ai có thể phủ nhận được kiến thức uyên bác của tác giả cũng như phương pháp làm việc rất là khoa học trong việc lý giải những nghi vấn của lịch sử (sẽ đề cập ở phần sau). Một đặc điểm mà ai cũng thấy là tác giả đã viết tập sách nầy với lòng yêu nước thiết tha và mong ước con cháu phải ghi nhớ về nguồn cội của chính mình dù bây giờ đang sống lưu lạc trên quê người.
Nếu phải đề cập đến những khám phá hay những lý luận để giãi trình những vấn đề còn nghi vấn trong giai đoạn hình thành đầu tiên của lịch sử Việt tộc trong "Việt sử Khai tâm", chắc chắn bài báo ngắn ngủi nầy không thể bao gồm hết được, người viết chỉ xin nêu lên vài điểm chính nổi bật trong toàn bộ công trình tìm tòi của tác giả.
1. Mốc giới 2195 trước Công nguyên và xứ Giao chỉ: tác giả HVL căn cứ vào bộ Ngũ kinh của Khổng Phu Tử (551-479 tcn), nói đúng là căn cứ vào cuốn Kinh Thư (phần nói về Hạ Thư) để đặt mốc giới cho sự hình thành của xứ Giao chỉ là vào năm 2195 t.c.n (việc tác gỉa trình bày tựa đề của chương I buộc độc giả phải hiểu như thế).
Khi đọc hết chương I nầy, tôi vẫn thấy mốc giới 2195 t.c.n chưa thể là mốc giới hình thành đầu tiên của Xứ Giao Chỉ, vì theo phần Hạ Thư trong cuốn Kinh Thư, thì nhà Hạ cai trị từ năm 2195-1763 t.c.n, và phần nầy có đề cập đến một vùng đất ở phương Nam, gọi là Giao Chỉ (hiểu theo nghĩa nơi chỉ toàn dấu vết của rắn Giao Long. Giao là nói đến rắn Giao Long, còn Chỉ có nghĩa là dấu vết). Nhà Hạ khởi nghiệp từ 2195 t.c.n, nhưng nếu cho rằng Giao Chỉ cũng ra đời vào mốc giới đó thì chắc là phải suy nghĩ lại.
Tuy vậy người viết rất đồng ý với tác giả VSKT khi ông cho rằng "Giao Chỉ là vùng đất đầy rắn Giao Long, không phải là một dân tộc có đặc điểm riêng biệt ở hai ngón chơn cái" (HVL,sđd, tr. 27) như cụ Trần trọng Kim trong "Việt nam Sử lược" đã ghi theo tài liệu trong bộ sử Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường (735-812 sau công nguyên) như sau: "Chỉ biết rằng người VN ta trước có hai ngón chơn cái giao lại với nhau, cho nên người Tàu mới gọi ta là Giao Chỉ" (TTK, Việt nam Sử lược, nxb Tân việt, Saigòn, 1964 tr,17).
2. Nguồn gốc dân tộc Việt là đâu? (chương II). Tác giả VSKT sau khi đọc lại sử sách và ghi nhận có ba giả thuyết về dân tộc Việt:
- Dân Việt lai Hán tộc đến 70, 80%.
- Dân Việt có nguồn gốc là người Tây Tạng như người Thái (theo số nhà nghiên cứu người Pháp).
- Dân Việt thuộc giống người Tam Miêu trước ở tận sông Hoàng Hà, rồi bị Hán tộc đuổi chạy lần xuống miền Nam, xuống tận Việt nam và hình thành dân tộc Việt nam ngày nay.
Sau khi tìm cách chứng minh các giả thuyết trên đây không thuyết phục lắm, tác giả Huỳnh văn Lang nhắc đến một gỉả thuyết thứ tư là "dân tộc Việt nam thuộc chủng tộc Bách Việt, trong đó có các tộc Quí việt, Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt... hiện còn tản mạn ở theo lưu vực sông Dương Tử, mà Việt Nam lại thuộc tộc Lạc Việt từ đó đi về Giao chỉ, Ái châu, Hoan châu từ ngàn năm t.c.n," (HVL sđd, tr. 103). và ông có vẻ nghiên về giả thuyết nầy hơn:
"Xem trước xem sau thì thấy giả thuyết Bách Việt nầy có phần đáng tin tưởng vì những lẽ sau đây. Xét về di truyền học (DNA) như cuộc hành trình của con người đã chỉ dẫn trên thì hoàn toàn hợp lý, nghĩa là từ Tây Tạng đi xuống miền Bắc Bán đảo Đông Dương, rồi đi lên băng qua trung lưu sông Dương Tử (còn băng giá) và đi lên nữa. Những phần tử bị bỏ lại hay tự dừng lại phía nam lưu vực sông Dương Tử đã hình thành các tộc Việt, trong đó có tộc Lạc Việt. Tộc Lạc Việt nầy vì tình hình chánh trị bất ổn phải đi trở lại miền Bắc Đông Dương, tức là Giao chỉ, Ái châu và Hoan châu, ba châu nầy đã trở thành nước Văn Lang, cũng trong thời gian đó hay sau một ít lâu" (HVL sđd, tr. 106).
Dĩ nhiên bạn đọc có quyền đồng ý hay không với nhận định nầy của tác giả. Riêng cá nhân người viết, thì công việc tìm tòi tài liệu, truy cứu sách sử thuộc cổ sử Trung hoa để biện giải cho lập luận của mình như trong VSKT thì quả thật tác giả Huỳnh văn Lang đã để lại trong tôi một sự cảm phục lớn lao về nỗ lực và quyết tâm của một con người khát khao đi tìm chân lý.
3. Về cuộc nổi dậy cũa Hai bà Trưng (chương VI). Tác giả HVL đã dành cho Hai bà Trưng sự cảm phục cao độ về sự dũng liệt của hai bà. Cho nên, khi đọc lại các nguồn sử liệu viết về cuộc nổi dậy của hai bà do các sử thần thuộc các Triều đại Việt nam viết ra như "Đại việt Sử ký" của Lê văn Hưu (1230-1322) cuối đời nhà Lý, như "Đại việt Sử ký Toàn thư" của Ngô sĩ Liên (1418....), như "Sử ký Tiêu án" của Ngô thời Sĩ (1726-1780), như "Sử ký Tiền biên" của Ngô thời Nhậm (1746-1803), "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" do Phan thanh Giản chủ biên in xong dưới thời Tự Đức... và gần hơn có "Việt nam Sử lược" của Trần trọng Kim, thì tác giả Huỳnh văn Lang đã nêu lên ba điều sai lầm và một điều thiếu sót trong các nguồn sử liệu nói trên.
- Sai lầm 1. Sách ĐVSKTT củ Ngô sĩ Liên nhận xét "Vua rất hùng dũng, đuổi Tô định, dựng nước xưng vương, nhưng vì là vua Đàn bà, nên không thể nên công tái tạo". Theo tác gỉa HVL thì "nếu bà không thành công trong việc trị nước bình thiên hạ, hoàn toàn không phải vì là Đàn bà mà là vì tình trạng kém văn hóa, kém học thức chung của cả một dân tộc. Những đức tính và tài năng của hai bà đã vượt xa thời gian, thành ra đâu có vấn đề đàn ông đàn bà trong đó." (HVL sđd, tr. 224). và tiện thể, tác giả chỉ trích quan niệm trọng nam khinh nữ; "nhứt nam viết hữu, thập nữ viết vô" của xã hội Nho giáo ngày xưa.
- Sai lầm 2. Cũng trong sách ĐVSKTT ghi nhận "quân chúng cũng cho vua là Đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Quốc thống lại mất". Tác giả VSKT đã phản bác điều nầy và cho rằng" Thua trận vì Bà không có bộ tham mưu có trí thức, mà muốn có cũng không làm sao có. Nhất là vì quân binh ô hợp, thì tất nhiên phải là lý do định đoạt sự thất bại trước quân binh địch với hàng ngũ vững vàng, kỹ thuật chặt chẻ và dày dạn kinh nghiệm chiến trường" (HVL,sđd tr. 224)
- Sai lầm 3. Sách "Đai việt Sử ký Tiền biên" ghi lại "Chỉ vì mối thù chồng đã nổi binh phất một ngọn cờ mà sáu bộ theo như hình với bóng". Nói đến việc bà Trưng nổi dậy vì thù chồng (chồng bà bị Tô Định giết), thì đa số sách sử hiện nay đều ghi giống nhau, kể cả " Quốc sử diển ca" của Lê ngô Cát. Tác giả Huỳnh văn Lang cho rằng thù chồng chỉ là một tình cảm riêng tư, không có đủ tác dụng lôi kéo mọi người tham gia đánh giặc, "quần chúng nhứt là các anh hùng, các anh thư đã cát cứ một phương, có trong tay cả nhiều ngàn nghĩa quân mà đã theo Hai Bà, chính vì Hai Bà là biểu tượng của một chính nghĩa, tức là thù nước, không phải thù nhà.(HVL,sđd, tr.225)
Điều thiếu sót: nhiều sử gia thời trước nghĩ rằng Hai Bà khởi nghiệp trước sau vỏn vẹn chỉ ba nắm (40-42 cn), quá ngắn chưa thể cho là một triều đại chính thống được. Ngô thời Sĩ trong "Việt sử Tiêu án" đã nhận xét "Xét thấy sau Hùng Lạc, quốc thống đã mất từ lâu. Đến bây giờ Trưng vương tự lập, Sử cũ vội cho là chính thống, nhưng xét họ Trưng dựng nước, trước sau mới 3 năm, bổng chúc dấy lên, bổng chúc bị diệt. Có lẽ chưa thành một nước, cho nên xứ chỉ theo chế độ các nước mà chia dòng ghi chú số năm vào giữa triều nhà Hán."
Và tác giả VSKT đã phản bác:
Quôc thống đã mất từ lâu, từ đời Triệu Đà như sử gia đã viết, hoàn toàn đúng cũng như 3 năm là quá ngắn ngủi, chưa thành một nước cũng cho là đúng. Rất tiếc là các sử gia không thấy 3 năm đó là một khoen của cái quá trình đi từ một ý niệm quốc gia (idea) của Hùng vương I, đến tinh thần quốc gia của nhà Thục và của Hai Bà. Và cái quá trình nầy còn tiếp nối đến Lý Bí, đến Ngô Quyền và sau đó nữa. Các sử gia V.N. chưa nhận thức được sự quan trọng của mỗi một cái khoen trong một sợi xích thằng phát triển quốc gia, đi từ tình trạng bộ lạc như nói ở chương trước. Người viết nghĩ rằng, nếu không có Hai Bà Trưng thì làm sao có được một hệ thống gần như liên tục chống đối phương Bắc, cho đến ngày hoàn toàn hình thành một quôc gia hoàn toàn độc lập." (HVL sđd,tr.226)
Trong VSKT, tác giả Huỳnh văn Lang có nhắc lại rằng: "Hai bà Trưng là con gái của tù trường bộ lạc M' linh. đất Phong châu, mà sau Mã Viện đổi thành huyện Mê-linh đang khi đó Thi Sách chồng bà là con của tù trưởng bộ lạc Chu Diên, Hà tây ngày nay" (HVL sđd, tr.93).
Đây là điểm mà người viết muốn được đặt lại. Bà Trưng có phải nổi dậy vì thù chồng? và tên chồng bà có phải là Thi Sách không? Tác giả Huỳnh văn Lang trong VSKT của mình cũng thường nhắc lại cuốn sách "Hậu Hán Thư" của Phạm Việp (398-445). Sách nầy có đề cập chuyện Hai bà Trưng và xứ Giao Chỉ, nhưng chính một đoạn văn trong cuốn sách nầy đã khẳng định tên chồng bà là Thi, và cả hai ông bà cùng nhau nổi dậy chống lại sự cai trị hà khắc của Tô Định. Xin xem lại một đoạn trích trong "Một Truyện dài không Tên", tập 2 của nhà văn Trần thị Bông Giấy, xuất bản tại San José, Hoa kỳ, năm 1998, tr.440-441 như sau: "Dương Diên Nghị cười hề hề..'Tôi thành thật nghĩ như vậy. Trong cuộc đời nầy, đã có bao nhiều người làm cùng một chuyện rồi, sao anh cứ lập lại hoài? Phải biết làm cái gì mớí chứ?'
Lê đình Cai cau mày: 'nói về lịch sử, tôi cũng nghĩ như anh Hoàng. Có nhiều sự kiện đáng cho mình đặt lại lắm. Ví dụ, tên chồng bà Trưng Trắc xưa nay người ta vẫn gọi Thi Sách, mà thật không đúng. Đó là một nhầm lẫn của lịch sử. Nhưng đến khi sửa lại là cả một vấn đề. Thật ra điều tôi nói trên được rút từ sách Tiền Hán Thư của Ban Cố và Hậu Hán Thư của Phạm Việp (nếu tôi còn nhớ không lầm) trong ấy có ghi rằng: Châu diên lạc tướng tử danh Thi, có nghiã là rằng ', "Sách Mê linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê' nghĩa là 'Hỏi con gái của Lạc tướng Mê Linh làm vợ. Chữ Sách có nghĩa là Hỏi. Nhưng trong chữ Hán không có dấu chấm phẩy giữa hai câu nên khi đọc thì đọc một lèo thành ra 'Châu diên lạc tướng tử danh thi sách mê linh lạc tướng nữ danh trưng tắc vi thê'. Cái khám phá đó, người ta đã tìm ra rồi mà không biết cách nào để đính chánh. Cho nên anh Hoàng đang làm cái việc lật lại lịch sử, tôi thấy rất hay. Tôi xin đọc thêm đoạn sau, anh chị sẽ thấy ông chồng bà Trưng Trắc chỉ tên là Thi thôi.
'Chu diên Lạc tướng tử danh Thi
Sách Mê Linh lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê
Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi khỉ tặc
Mã viện tương binh phạt
Trắc Thi tẩu nhập kim khê'
"Nếu như ông ta tên Thi Sách thì phải đọc Trắc Sách tẩu nhập, bởi đã nhắc tên thì tên cả, nhắc họ thì họ cả. Đàng nầy, 'Trắc Thi tẩu nhập kim khê'.Trắc và Thi đều chạy vô núi Kim Khê"
Trở lại với SVKT, về phần hình thức, tác giả không tránh khỏi những lỗi lầm về chánh tả, vì cách phát âm không đúng của người miền Nam và trong phép chú thích, tác giả đã không theo đúng quy định của phương pháp MLA (modern Language Association) hay APA (American Psychology Association). Một điều tôi cảm thấy vui là trong phần sách tham khảo của "Những Công chúa Sứ giả" tác giả đã không đề năm xuất bản, nhưng trong "Việt Sử Khai Tâm", phần sách tham khảo đã có ghi đầy đủ năm xuất bản, lần xuất bản, nhà xuất bản đúng quy định của phương pháp MLA và APA.
Tóm lại.
Tác giả Huỳnh văn Lang trong "Việt sử Khai tâm" mà ông còn đặt một tựa khác là "Có những sự kiện lịch sử cần phải xem lại" đã nêu lên rất nhiều nghi vấn lịch sử, và chính ông cũng không giải quyết được hết những vấn nạn lịch sử ấy vì quả thật thời kỳ khai sanh của dân tộc vốn là thời kỳ hết sức tâm tối về sử liệu và hết sức mù mờ vì quá nhiều huyền thoại. Tuy vậy tác giả VSKT cũng đã nêu bật được rất nhiều điểm sáng trong khu rừng tăm tối ấy cuả lịch sử. Điều nầy lại càng trân qúy khi tác giả đã vượt qua tuổi "thật thập cổ lai hy" (tác giả đã hơn 82 tuổi rồi). Nêu bật hết những luận điểm rất mới của tác giả trong cuốn sách quả thật bài viết nầy không làm được. Chỉ mong, qua bài viết ngắn ngủi nầy, người viết sẽ bắt được nhịp cầu giữa tác giả VSKT với quý đọc gỉa bốn phương, những người vốn tha thiết tìm về cội nguồn thiêng liêng đất tổ./.
San José, Những ngày vào thu 2004.
- Đọc Sách Nguyễn Lý-tưởng: ‘Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu’ Lê Đình Cai Điểm sách
- Tác giả Huỳnh văn Lang và "Việt Sử Khai Tâm" Lê Đình Cai Nhận định
- Tuyển Tập Văn 50 Năm Cầm Bút Của Nhà Văn Song Nhị Dưới Góc Nhìn Sử Học Lê Đình Cai Nhận định
• Tác giả Huỳnh văn Lang và "Việt Sử Khai Tâm" (Lê Đình Cai)
- Huỳnh Văn Lang và tác phẩm “Đã hơn 30 năm rồi” (Nguyễn Thanh Liêm)
- Tờ Bách Khoa của Huỳnh Văn Lang và người kế nhiệm Lê Ngộ Châu đã làm nên lịch sử báo chí (Nguyễn Văn Lục)
- HỘI THOẠI GIỮA Giáo sư HUỲNH VĂN LANG & Ký giả NGÔ ĐÌNH VẬN (chinhnghiavietnamconghoa.com)
- GS Huỳnh Văn Lang Tặng Thư Viện VN 2,000 Cuốn Sách (vietbao.com)
- Phỏng vấn GS. Huỳnh Văn Lang về TT Donald Trump và Biển Đông (Huỳnh Khắc Sử)
- Buổi ra mắt sách “Ký Ức Huỳnh văn Lang” (Đỗ Hải Minh)
• Bổ túc thêm về Tạp chí Bách Khoa
(Huỳnh Văn Lang)
- Giáo Sư Huỳnh Văn Lang - Cầu An, Khánh Thọ 87 Tuổi Cựu Tướng Tôn Thất Đính
- Sự Thật Lịch Sử Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam (1955-1963)
- GS. Huỳnh Văn Lang lược thuật cuộc hội thảo của Đại học Berkeley về VNCH 1955-975
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |