|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Đoàn Như Khuê
Xem chừng văn quốc ngữ ta có cơ tiến bộ. Gần đây đã thấy lác đác một vài người lưu tâm chú ý đến văn chương Nôm. Cái nhiệt thành ấy tuy cũng chưa lấy gì làm sốt sắng lắm, nhưng so với sự lãnh đạm trước kia thì cũng là một triệu chứng tốt. Mới rồi ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã hiến ta một Khối tình con, khiến cho mong mỏi còn sắp được một Khối tình lớn nữa. Nay ông Hải Nam Đoàn Như Khuê lại tặng ta Một tấm lòng, hứa sẽ tiếp theo sau này một tập Cảo thơm. Nếu từ giờ đến ít lâu lại xuất hiện được một ông “Hải Đông” hay ông “Nùng Nhị” nào nữa, thì quả nên vui, nên mừng thay cho tiền đề quốc văn vậy.
Trước đã có dịp bàn về thơ văn ông Tản Đà mà chào mừng ông là một nhà văn Nôm có biệt tài. Nay hẵng hoan nghênh riêng ông Hải Nam mà cám ơn ông cho ta cái quà rất quý báu, vì còn quà gì quý bằng “một tấm lòng" người. Người đời ai tặng nhau vật gì thường hay gửi “chút lòng thành” theo sau. Nay ông cho ta cả “cả tấm lòng” của ông, thì há chẳng nên vui lòng mà tiếp nhận dư! Huống tấm lòng ông lại có lắm vẻ vui sầu, lắm mối cảm động, khiến cho lòng ta cũng đồng thanh mà đồng điệu, cùng khóc cùng cười, cùng than vãn mà cùng mỉa mai.
Ông Đoàn Như Khuê là người đa sầu đa cảm, bởi đa cảm nên đa sầu. Người ta đã không phải là giống mộc thạch, thì đối với cảnh vật, đối với sự đời, thường có cảm, kẻ ít người nhiều, xưa nay ai là người chẳng có. Nhưng cái đặc sắc của “tấm lòng” kẻ thi nhân là biết cảm sâu hơn người thường, bởi thế mà cảm dễ sinh ra sầu. Đã mang cái sầu ở trong lòng, thì không còn gì khiến cho vui được nữa, tưởng mình đứng trong trần thế như cái cù lao trong “bể thảm”, bể bát ngát mà mênh mông, vô cùng mà vô tận:
Bể bao nhiêu nước, bao nhiêu thẳm,
Lấp chẳng đầy cho, tát chẳng vơi.
Bởi thế mà gây nên những lời thiết tha ai oán, than cái thân phận con người trong cõi phù sinh:
Mới lọt lòng ra đã khóc rồi,
Kiếp trần ngắn lắm, chị em ôi!
Một lần mình khóc lần người khóc,
Sống thác đôi lần giọt lệ rơi!
Đọc bài Bể thảm ấy mà nhớ đến mấy câu não nùng trong Cung oán:
Thảo nào khi mới chôn rau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra.
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu
......
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau,
Trăm năm còn có chi đâu,
Chẳng qua một nấm có khâu xanh rì.
Lại bài Khóc bạn, lời khúc chiết giọng thiết tha, cũng phảng phất được ít nhiều giọng văn Hàn Dũ khóc cháu. Cho hay tự cổ chí kim, phàm tiếng kêu khóc đã xuất tự trong lòng ra thì cũng là mang bấy nhiêu nỗi ngậm ngùi, bấy nhiêu tình thê thảm. Chỉ tiếc trong bài văn ấy phải một đoạn giữa mượn những tên ông Sấm ông Sét, đức Thiên Lôi, bà La Sát, mà tỉ cái hồn tự do thanh nhàn của người bạn mình, người bạn dầu có biết ngồi nghe lời viếng ấy cũng phải khiếp đảm.
Đại để thì ông Hải Nam hay văn vần hơn văn xuôi. Những bài văn xuôi của ông như bài Tựa, bài Bàn về chữ tình còn chưa được luyện lắm. Bài tựa thì khí lôi thôi, mà bài “tình” thì có lắm đoạn hơi buồn cười: như ông dạy “chữ tình không phải chỉ riêng một mình đàn ông có, riêng một mình đàn bà có, phải trộn lẫn hai đàng lại với nhau mới thành ra một khối tình chung”, thì tưởng chẳng cần phải sâu sắc lắm mới hiểu được.
Chẳng dám khuyện gì ông, nhưng thiết tưởng làm văn xuôi cốt giản và ước. Muốn diễn một cái tư tưởng gì, phải xếp đặt ý sẵn trong bụng, rồi cứ lần lượt mỗi ý diễn ra một lời, chọn lời cho tương đương với ý, hơn một câu không nói, thiếu một ý không nghe; có muốn tỉ dụ cho rõ nghĩa thêm thì cũng chỉ nên chọn trong nhiều người lấy một người một việc nào là đích đáng mới nói, chớ có nên nhân bàn một sự gì cũng gọi đến vua Napoléon nước Pháp, ông Mã-chí-ni (?) nước Italia, thầy Rousseau, thầy Mạnh Đức, bà Trinh Đức, bà U Lan, trút cả bộ Ẩm băng vào một trang giấy! Cái tật ấy là tật chung của các nhà đọc “tân thư” ở nước ta, ông Đoàn xem ra cũng mắc ít nhiều.
Còn vận văn của ông thì không kể bài Bể thảm hay hơn nhất, những bài khác cũng nghe được cả. Xem ra ông sở trường lối thơ buồn hơn thơ vui; đó cũng là một cái đặc sắc trong nghề thơ của ông. Bởi thế những câu hay thường là câu buồn:
Nước chảy chảy theo đôi giọt lệ,
Nhà xa xa cách mấy ngàn dâu,
Sông Thương sực nhớ đêm mưa gió,
Kẻ ngược người xuôi một chuyến tàu,
......
Năm canh một ngọn đèn xanh ngắt,
Thêm giật mình cho trận gió lau.
Những bài tả cảnh vui thú cũng là cái thú buồn, thú tiêu sắt như thú mùa thu. Như hai bài đi chơi thuyền trên Tây Hồ:
Một chiếc thuyền tình bốn mặt hoa,
Trên trời dưới nước giữa đôi ta,
Hồ quang mưa tạnh sen vừa nở,
Giữa bóng trăng khuya bóng chửa tà,
Trần gian mơ tưởng cảnh bồng tiên,
Phỏng cũng như đây nước một miền,
Thuyển nếu cứ đi người chẳng lại,
Đời sau thêm một chuyện Đào nguyên.
Hai câu dưới khéo. Vì Đào Tiềm ngày xưa là ai? Mỗi người ta cũng có thể mà cũng có lúc là Đào Tiềm được. Bước chân vào nơi phong cảnh hữu tình nếu biết lấy con mắt thơ mà nhìn, thì suối Đào tất ở đấy, không xa.
Những bài ca dao của ông cũng nhiều bài véo von lắm, thực có cái tinh thần “Quốc phong” ở đấy, đều là đáng hát cả. Thứ nhất là bài Đứng đầu cầu Ninh Bình:
Hôm hôm ra đứng đầu cầu,
Dưới chân nước biếc trên đầu non xanh,
Có tôi với một vài anh,
Thấy vài cô nữa loanh quanh đầu cầu.
Lại bài sau này, chẳng kém gì những lời phong dao rất hay của đàn bà trẻ con ta thường hát khi gió mát trăng thanh:
Cảnh trời ai bán mà mua,
Mua non non Thúy, mua chùa chùa Hương,
Mua hoa mới nở giữa vườn,
Mua trăng mới mọc trên sườn núi cao.
Ông sở trường lối thơ buồn, nên ông không khéo làm thơ vui. Những bài ông bỡn cợt mấy ông hậu bổ: Ắt my (admis) ngất ngưởng chân quan Hậu... Tên lúy (lui) rồi tên cậu đứng liền, hay bài viếng giễu cụ sư mới chết: Có lẽ ăn chay cũng chết à? Phen này rồi cũng hóa ra ma! không được nhã lắm.
Nhưng mà đó cũng là những khuyết điểm nhỏ, chẳng kể vào đâu. Được những bài Bể thảm là đủ vớt lại cả.
Nghĩa vụ nhà phê bình là phải khen chê cho phải đường. Không biết mấy lời bình phẩm này có được hết nghĩa vụ ấy không, nhưng mong rằng khỏi mắc cái oan trong lời ngạn ngữ: “Nói thật mất lòng”. Nói thật bao giờ vẫn là hơn.
(1918)
- Phê Bình Thơ Văn Mới: "Một Tấm Lòng" của Đoàn Như Khuê Phạm Quỳnh Phê bình
- Bài Diễn Thuyết Bằng Quốc Văn Phạm Quỳnh Diễn thuyết
- Tâm Lý Ngày Tết Phạm Quỳnh Tiểu luận
- Đẹp là gì? Phạm Quỳnh Tiểu luận
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |