1. Head_

    Lam Phương

    (20.3.1937 - 22.12.2020)

    Lưu Trung Khảo

    (.0.1931 - 22.12.2015)

    Nguyễn Hiến Lê

    (8.1.1912 - 22.12.1984)

    Nguyễn Đình Nghĩa

    (5.10.1940 - 22.12.2005)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Chu Thiên, Ông Thầy Thời Niên Thiếu (Viên Linh) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      16-5-2020 | VĂN HỌC

      Chu Thiên, Ông Thầy Thời Niên Thiếu

        VIÊN LINH
      Share File.php Share File
          

       


           Nhà văn Chu Thiên
          (1913 - 1.6.1992)

      Không những nổi tiếng từ thời tiền chiến với tác phẩm Nhà Nho và những truyện dài ngắn viết trên các tạp chí đương thời dùng các nhân vật có thật trong lịch sử làm nhân vật tiểu thuyết của mình – Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Tuyết Giang Phu Tử, ... nhà văn Chu Thiên còn nổi tiếng lần nữa mấy chục năm sau (1970) với Bóng Nước Hồ Gươm. Năm 1954 một hôm ở Phủ Lý, sau giờ học, Thầy hỏi tôi: “Em có thể chở Thầy lên Hà Nội được không?”

      Tháng 5, 1954.


      Thầy Chu Thiên, hiệu trưởng trường Trung học Phủ Lý hỏi học trò: “Em có thể chở thây lên Hà Nội không?”... “Bao giờ em vào Nam?” “Dạ? “Mẹ em có tính đi Nam không? Về nói với mẹ em coi chừng kẻo trễ.”



            Kệ sách Học Xá

      Chu Thiên là tác giả những cuốn tiểu thuyết nổi danh như Bút Nghiên, Nhà Nho, mà Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại (1942) đã xếp vào chương các nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự. Với toàn bộ sự nghiệp của ông cho tới khi từ trần năm 1992, ông xứng đáng là một tiểu thuyết gia lịch sử. Người viết những dòng này là học trò ông trong ba tháng hè ở Trung học Phủ Lý, 1954, những ngày xao động phân ly nhất của tuổi trẻ đất nước, khi những chữ “hội nghị Geneve,” “vô Nam hay ở lại” được mọi người nhắc nhở, bàn tán từ đồng quê tới phố phường, từ Hà Nội tới các tỉnh thành khác của Việt Nam.


      Trước khi về Phủ Lý học khóa hè, những tháng cuối cùng của năm đệ lục Chu Văn An Hà Nội, tôi đã chứng kiến một kinh thành nhớn nhác qua đôi mắt của một cậu học trò trọ học. Mẹ và chị em còn ở hậu phương, song gia đình họ Nguyễn chúng tôi phần lớn đã ở Hà Nội. Vài tháng khoảng đó, nghe mấy chữ Điện Biên Phủ ai cũng hiểu đó là nơi chiến tranh Pháp Việt đang xảy ra vô cùng ác liệt.


      “Cuộc chiến đấu của quân đồn trú ở Điện Biên Phủ tiếp tục, và các hoạt động tiếp vận từ Hà Nội yểm trợ cho căn cứ vẫn được tiến hành. Đêm 5 rạng 6 tháng 5 [1954], vào lúc 04:12 giờ chừng 10 chiếc máy bay vận tải C47 vượt lưới lửa phòng không thả thêm được 91 quân dù xuống Điện Biên Phủ. Đây là đêm thứ tư thả các đơn vị của tiểu đoàn Nhảy Dù thuộc địa số 1, và trong bốn đêm liền mới chỉ có 383 trong số 876 người của tiểu đoàn này chạm đất...”


      “... Ngày 7 tháng 5, vào lúc 10:00 giờ Tướng De Castries liên lạc về Hà Nội báo cáo với Tướng Cogny Điện Biên Phủ đang trong tình trạng hấp hối. Khoảng 3:00 giờ chiều ở Bộ Chỉ Huy căn cứ ĐBP đã có một buổi hội chỉ huy lần chót... Họ đề nghị ngưng bắn vào lúc 17:30 giờ và thông báo cho đối phương biết.”


      “ĐBP thất thủ hôm trước thì hôm sau tức là ngày 8 tháng 5, 1954, chín đoàn đại biểu của Pháp, Quốc Gia Việt Nam, Miên Lào, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Anh Quốc, Liên Xô, Trung Cộng và Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc thương thuyết nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam trong khuôn khổ Hội Nghị Viễn Đông đã khai mạc ngày 26 tháng 4, 1954 tại Giơ-ne, [Geneve] Thụy Sĩ.” (Theo Bạch Hạc Trần Đức Minh, Một Thời Nhiễu Nhương, 1945-1975, tr. 363-364.)


      Quê quán Đồng Văn của chúng tôi gồm có Phố Ga Đồng Văn, một thị trấn chạy dài gần hai cây số trên Quốc lộ số 1, và thôn Đồng Văn, chỉ cách Quốc lộ bằng một con sông đào. Từ nhà đi Hà Nội cách 47 cây số ở hướng Bắc, đi Phủ Lý cách 11 cây số ở hướng Nam. Ba tháng hè về quê, tôi đi Phủ Lý học, đi về bằng xe đạp mỗi lượt chỉ mất vài chục phút, nếu đường không bị đào xới, cắt khúc, chất chướng ngại vật. Hai bên đường đầy tăng-xê, cắt sâu vào mặt đường theo kiểu chữ chi (Z), đan nhau bằng cách không để xe hơi chạy nhanh được. Xe phải lượn ngoằn ngoèo tránh những khoảng lõm ăn sâu vào xương sống con đường.


      Lúc ấy tôi có chiếc xe đạp Peugeot dura, loại nhẹ, chỉ cần cầm một tay giơ cao khỏi đầu được. Nhờ nó, tôi di chuyển dễ dàng, từ nhà tới Phủ Lý học đã đành, lại còn chạy chơi bên bờ sông Châu Giang, hay đôi khi cùng một người bạn trốn nhà phóng lên Hà Nội vào buổi trưa, đến tối đã có mặt ở nhà, có khi không ai biết.


      Trường Chu Văn An ở Hà Nội và ngôi trường trung học ở Phủ Lý là hai chỗ không thể so sánh được. Nhưng mặt khác, hai ngôi trường đó đã cho tôi ba vị thầy không bao giờ cậu thiếu niên học trò có thể quên, nhất là những ngày ngồi viết những dòng chữ này ở ngoài đất nước.


      Ở Phủ Lý, tôi ngồi trong lớp đệ lục, thầy dạy Quốc Văn là thầy Chu Thiên. Thầy cũng dạy Việt Sử nữa. Tôi thấy thầy ở ngoài lớp, không nghĩ ngợi gì, mà tự dưng thấy băn khoăn. Hình ảnh còn nhớ tới bây giờ là một người đàn ông hom hem, mặc quần áo kaki bạc màu, áo cũng như quần, đều một màu vàng nhạt, bạc thếch, thầy đứng tựa lưng vào tường, lẫn vào màu vôi vàng nhạt cũng bạc thếch của ngôi trường đầu chỉ có hai hay ba căn. Thầy Chu Thiên ở Trung Học Phủ Lý không giống bất cứ ông thầy nào ở Chu Văn An. Thầy quá gầy yếu, đã đứng tựa vào tường mà còn không đứng thẳng. Hơi xiêu xiêu, hay thầy trùng một chân xuống, khuỵu một gối xuống, chỉ cho sức nặng của thân thể trì trên một chân. Thầy sẽ đổi chân, chuyển sức nặng qua trái hay phải tùy theo từng lúc. Thoáng thấy lần đầu, thầy đang ăn một khúc sắn trắng muốt. Tôi không biết ông sẽ là thầy tôi, cho đến một hai hôm sau. Hôm sau đó, vẫn hình ảnh ấy, chỉ khác là thầy không ăn sắn, mà ăn chuối. Thế rồi thầy lên lớp, bấy giờ tôi mới biết đó là thầy Chu Thiên, vừa là giáo sư, vừa là hiệu trưởng.


      Chỉ trong khoảng vài tuần, tôi thương thầy. Và cứ từ thân xác mình suy ra, tôi đoán chừng thầy nặng khoảng 40 cân. Biết ông thầy gầy yếu, nhưng tôi không suy nghĩ gì, cũng chẳng tìm hiểu làm gì, cho đến một hôm thầy Chu Thiên tới gần tôi trong giờ chuyển môn học.


      Thầy hỏi:

      “Em có thể chở thầy lên Hà Nội không. Hay chỉ cần chở thầy lên Đồng Văn cũng được. Thầy cũng có thể chỉ đến Đồng Văn, rồi tìm cách đi Chợ Đại hay Công Thần, rồi đi Hà Nội sau.”


      Dĩ nhiên là tôi sung sướng gật đầu ngay. Khi thầy ngồi lên cái khung ngang của chiếc xe đạp rồi, tôi đạp xe đi, mỗi tay một bên ghi-đông, mà không thấy thầy chạm vào tay tôi.


      Tôi không còn nhớ những chuyện gì đã nói, song nhớ rất rõ thầy hỏi về gia cảnh của học trò. Tôi kể thành thật, kể hết, không giấu diếm gì. Tôi cũng cho thầy biết - vì thầy hỏi - về họ hàng chú bác, tất cả ở Hà Nội.


      - Bao giờ em vào Nam?

      - Dạ?

      - Mẹ em có tính đi Nam không? Chú bác họ hàng ở Hà Nội chắc là đi Nam cả?

      - Vâng.


      Tới nhà tôi, Phúc Hưng Đường, là ngôi nhà gạch nằm trấn trên ngã ba Phố Ga, cách mặt đường vài chục thước, bề sâu 40 thước. Trước mặt là một con dốc mà dân nhiều làng phía châu thổ sông Hồng sẽ phải đi qua để đáp tàu hỏa lên Hà Nội, các tỉnh phía Tây Bắc, hay xuôi Nam, vào Huế, hay Sài Gòn. Tôi chỉ ngôi nhà cho thầy biết. Sinh tiên, đó là tiệm thuốc Bắc của Bố tôi. Địa thế của nó hồi 1944 đã bị Nhật chiếm làm trụ sở. Đứng trên trụ gạch trên mái nhà, người ta có thể quan sát đủ bốn hướng đông tây nam bắc, không hướng nào có nhà cao hơn.


      Thầy đòi xuống, nói sẽ đi Hà Nội sau. Tôi gặng hỏi để chở thầy đi luôn, nhưng thấy nhất định thoái thác. Khi chia tay, thầy nhìn sâu vào mắt tôi:

      - Về nói với mẹ em coi chừng kẻo trễ.


      Đó là tất cả những gì tôi nhớ về thầy khi còn niên thiếu; sau này mới đọc và tìm hiểu thêm về ông thầy nhà văn nổi tiếng.


      Chu Thiên tên khai sinh là Hoàng Minh Giám, sinh ngày 2 tháng 9, 1913, quê ở huyện Ý Yên, Nam Định, dòng dõi nhà Nho. Năm 1938 ông ở Hà Nội, bắt đầu bước chân vào làng văn, viết bài cho các báo thời ấy, như trên tờ Tri Tân ông viết rất nhiều, nghiêng về các đề tài lịch sử, tiểu thuyết lịch sử xoay quanh các nhân vật như Lê Thái Tổ (1941), Bà Quận Mỹ (1942), Bút Nghiên (1942), Nhà Nho (1943), Tuyết Giang Phu Tử (1945), Khí Tiết (1946). Trong thời kháng chiến, ông chuyên về dạy học, từng làm hiệu trưởng Trung Học Phủ Lý, sau năm 1954 về Hà Nội, ông dạy Đại Học Tổng Hợp.


      Nổi tiếng từ hồi tiến chiến đã đành, năm 1970 Chu Thiên còn nổi tiếng một lần nữa với tiểu thuyết Bóng Nước Hồ Gươm, gồm hai tập, viết về giai đoạn biến động của đất nước từ khi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và Hà Nội từ thế kỷ thứ XIX. Đây là một tác phẩm đồ sộ cuối đời của ông. Ông từ trần ngày 1 tháng 6 năm 1992.


      Viên Linh

      Nguồn: Lịch Sách Chân Dung Nhà Văn Việt Nam
      Nxb Khởi Hành, 2017

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh Viên Linh Nhận định

      - Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan Viên Linh Thơ

      - Bạch thư Phạm Huấn Viên Linh Nhận định

      - Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà Viên Linh Nhận định

      - Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi Viên Linh Nhận định

      - Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Viên Linh Hồi ký

      - Nỗi âu lo của nhà giáo Bảo Vân Viên Linh Hồi ký

      - Con hạc của vua Tự Đức Viên Linh Giai thoại

      - Tản Đà Và Hai Chữ Non Nước Viên Linh Hồi ký

      - Hoài Điệp Tử, nhà văn nhà báo chết trong ngọn lửa Bolsa Viên Linh Hồi ký

    3. Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)

      Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)

      Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)

      Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)

      Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)