|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Yến Lan
(1916 - 1998)
Nhà thơ Yến Lan (có biệt danh: Lân) là một trong “Tứ Linh“ (Long, Lân, Quy, Phụng) của Bàn Thành Tứ Hữu (theo thứ tự: Hàn Măc Tử (Long), Yên Lan (Lân), Quách Tấn (Quy), Chế Lan Viên (Phụng) mà tôi ngưỡng mộ nhất khi được dịp đọc nhiều thơ Ông – nhất là, khi được biết rõ nhân cách của Ông (qua các bài viết của quý nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học: Giang Nam, Nguyễn Hữu Thỉnh, Phạm Hổ, Khổng Đức, Tế Hanh, Hoàng Cầm, Thúy Toàn, Minh Châu, Trúc Thông, Nguyễn Thụy Kha, Hoài Anh… và qua tác phẩm “Nhớ Mãi Về Anh“ của bà Nguyễn Thị Lan (nhà XB Văn học -2001), cùng tập hồi ký của Lâm Bích Thủy được đăng nhiều kỳ trên trang vnweblogs của nhà văn Mang Viên Long - 2008 - Người với thơ là một. Người xưa đã từng nhận đinh “Văn (thơ) là người “ – ở nhà thơ Yến Lan đời sống và thơ Ông là một thể thống nhất, keo sơn – cho dù phải trải qua bao nổi truân chuyên, thăng trầm: Ông đã trải lòng với thơ, sống chung thủy chân tình với thơ hơn hai phần ba thế kỷ! Thơ Yến Lan khẻ khàng, sâu lắng, đôn hậu như con Người Ông vậy!
Từ những bài thơ đầu tiên trong tuổi thanh xuân, cho đến những bài thơ cuối đời đọc cho người bạn đời ghi lại trên giường bệnh – Nhà thơ Yến Lan vẫn một giọng thơ, một dòng thơ dào dạt yêu thương đời, yêu thương người với tấm chân tình hồn hậu, rộng mở.
Nhà thơ mồ côi Mẹ rất sớm – nhà nghèo, Ông viết trong bài “Dáng Mẹ“ như một khắt chạm, phác thảo tài hoa :
“Tưởng tượng không ra hình dáng Mẹ
Đêm dài con thức vẽ chân dung
Thôi đành mượn nét xưa cha kể
Trên mũi kim cong một sống lưng“
Sự nhớ thương ấy gắn liền với hình ảnh khó quên của đời Ông:
“ Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau, trở dạ - không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng “
(Bệnh Trăng – 1938)
Nhà thơ đã viết về người chị thứ Tư thân yêu:
"... Tuổi thơ một đời cây thị
Chiều lung linh theo tiếng chuông chùa
Một lòng giếng nửa làng đến múc
Không thấy mặt mình chỉ nước nhấp nhô
Mẹ chết sớm, chị đi phu
Quần áo rách túm bằng dây chuối..."
Còn lại với người chị - như người mẹ nhỏ, Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi cô độc và đã nuối tiếc “Khi Chị Đi Lấy Chồng“: "Nhiều người cùng mồ côi, song đối với ông là cả một không gian mồ côi; mồ côi mẹ, đến chị, đến cả bát đũa nữa:
“Khế chua chị nấu lá mồng tơi
Em ước cùng ăn đến trọn đời
Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục
Chị đi bát đũa cũng mồ côi”
Với tình yêu đầu đời – cũng là mối tình thủy chung cho đến ngày cuối – nhà thơ đã thố lộ trong “Tặng Hoa" (1938) rất chơn chất, đằm thắm và chí tình:
“Tuổi trẻ băng đồng đi hái hoa
Tặng em ngấp nghé chực quanh nhà
Người không ra đón, hoa dần héo
Héo cả làn mây đỉnh núi xa
Không trách ai đâu, chỉ trách mình
Dáng nghèo, lam lũ áo thư sinh
Bó hoa đơn giản, hương đồng nội
Lầu gác, ai đâu dễ động tình
Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi
Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi
Vụng về đến nổi vô duyên vậy
Bởi hiều hoa thôi, chẳng hiểu người… “
Tình Yêu trong thơ Yến Lan có một nét rất riêng: lãng mạn nhưng kín đáo. dào dạt mà từ tốn, chân thật không lắm lời: Chúng ta hãy đọc vài đoạn tứ tuyệt:
“Từ cửa nhà em đến nhà anh
Phải vòng qua một quảng đường quanh
Nhưng vườn sau lại liền không đất
Chỉ cách nhau ra một bức thành”
Hay;
“Cây trái hai nhà vườn giao nhánh nhau
Phía anh lê, lựu; phía em đào
Đến ngày trái chín bên này hái
Đưa biếu bên kia lứa quả đầu“
Và :
“ Giận cái ngây thơ tự buổi đầu
Thấy rằng tường dậu chẳng ngăn nhau
Ai hay rẽ thúy chia duyên ấy
Còn bức tường cao giữa khổ, giàu!“
Rất nhiều bài tứ tuyệt được Yến Lan viết về sau này dành cho Người Yêu, Tình Yêu – nhưng dù có hào hoa lãng mạn, vẫn một giọng thơ chân thật, sâu kín – rất tinh tế:
“Em đến xin hồng, hồng chửa nụ
Hôm nay hồng nở, bóng em xa
Cầm chân bữa trước em không ở
Giờ biết làm sao cầm được hoa?“
(Cầm Chân Em, Cầm Chân Hoa)
Với người bạn đời – là người yêu đầu tiên, Nhà thơ đã dành trọn hồn thơ chung thủy gắn bó đến cuối dời – bằng lời tâm tình rất đầm thắm trong bài “ Khắng Khít “ ( viết năm 1965) để tặng bà như một món quà ngày sinh nhật:
“Em có cháu gọi “bà”
Gọi “em” anh vẫn gọi
Năm mươi tuổi, ai già
Chúng mình sao trẻ vậy.
Anh đọc truyện em nghe
Em muốn em là “Tấm”
Lòng Hoàng tử anh mê
Từ buổi – đầu em lấm.
Em gọt khế cuối mùa
Anh cắn từng lát nhỏ
Ôi, quả thường vị chua
Mà mọng nhiều thương nhớ.
… Bao bận anh lên đường,
Ngày về thường sai hẹn
Giữa lúc em dỗi hờn
Thư anh liền kịp đến…”
Nhà thơ Yến Lan có 06 người con: Ba trai và ba gái – trong 21 năm đất nước bị chia cắt, chiến tranh, với đồng lương rất hạn chế của hai vợ chồng (Ông công tác tại nhà XB Văn Học, Bà công tác ở cửa hàng Thuốc Bắc khu phố) – đời sống thiếu thốn, nhưng Ông đã dành trọn cho các con mọi tiện nghi – thậm chí, tự sáng chế ra các món đồ cần thiết cho gia đình mà không tốn tiền (như bàn ủi, bếp nấu, vật dụng thường ngày. Mời đọc thêm “Yến Lan, Nhớ Mãi Về Anh" của bà Nguyễn Thị Lan và Hồi ký “Về Người Cha là Thi Sĩ “ của Lâm Bích Thủy). Ông đã viết nhiều bài thơ về các con, dành tặng cho các con thân yêu – đó là món quà của người thi sĩ nghèo, kém may mắn.
Ông có hai người con đi bộ đội – mỗi lần nhận được thư con từ chiến trường gởi về - Nhà thơ đã tâm sự:
“Ngày tháng không đề, địa chỉ không
Nửa trang chỉ đọc được đôi dòng
Biết con chữ viết trong mưa núi
Mà ấm lòng cha suốt tiết đông”
Lâm Bích Thủy, Tú Thủy đều dồn về học ở trường học sinh Miền Nam số 13 ở Thái Bình – một lần tìm đến thăm các con, Ông đã viết bài “Bẻ Liễu“ (1956) đẻ tặng cho cô con gái nhỏ Tú Thủy – bởi đó là món quà duy nhất:
“Đi qua đường Tân Đệ Thái Bình
Cha bẻ cho con cành dương liễu xanh
Hởi con gái lớn theo lòng Hà Nội
Vườn phố con đi chen đầy cây cối
Có lạ gì một nhánh liễu rung rinh
Bẻ cho con nhành liễu xanh biếc
Trên quảng đường xưa lên bờ tập kết
Cha dẫn con về một lớp học Miền Nam
Tạm ở Thái Bình giữa xóm mái tranh lam(..)”
Nhà thơ Yến Lan được nhiều ban thơ văn quý mến vì tấm lòng chơn chất, trong sáng, sẻ chia. Ông đã từng đùm bọc Quang Dũng như một người em, chia sẻ cùng Văn Cao, hết lòng với Hoàng Cầm, Quách Tạo, Nguyễn Đình, Trinh Đường, Nguyễn Thành Long (..). Tâm tình này được Ông ghi lại trong bài tứ tuyệt rất da diết:
“Sang canh, bìm bịp kêu ngoài lán
Đất mới, nhà đơn – lạ láng giềng
Nhớ bạn nửa đêm ra tựa liếp
Khuyết cong mây bạc ngấn trăng in“
Một đoạn trong tập hồi ký “Yến lan, Nhớ Mãi Về Anh“ bà Nguyễn Thị Lan đã ghi lại: “ (..) Cuối năm 1957 anh Lan nhận được 80 đồng tiền nhuận bút tập “Những Ngọn Đèn“, anh Lan đã san sẻ cho anh Dũng một nửa để mua gạo. Hai người như có một nổi niềm, một tâm sự nào đó giống nhau, anh Lan thì thương cái hiền lành của anh Dũng, còn anh Dũng cảm thông sự không may của anh Lan. Tặng Quang Dũng, anh Lan viết:
“Tàu điện xa dần phía chợ Mơ
Phòng văn được phút lặng không ngờ
Họa mi ai nhốt sau lồng trúc
Vọng tiếng rừng sang góp với thơ”
(Họa Mi Trong Lồng – th 10/ 1973)
Quang Dũng đã vẽ tặng Yến Lan bức tranh “ Đường Làng “ – về bức tranh, Yến Lan đã đề thơ:
“Treo lâu sơn thủy cành thu suông
Bụi bặm thời gian đã phủ dồn
Để đó vào ra không kẻ ngắm
Cất đi còn ngại mặt tường trơn!“
Nhà thơ Yến Lan viết rất nhiều thơ cho tình bằng hữu, tình đồng hương – mỗi bài, một tâm sự một nỗi niềm. Tôi thích nhất bài thơ “Uống Rượu Với Bạn Đồng Hương” vì tiêu biểu được cho nhân cách, cho cái tình, và cho cả phong thái an nhiên của nhà thơ trước mọi thăng trầm của cuộc đời Ông bất hạnh:
“Thường ngày ít hay rượu
Giờ cầm chén với anh
Khuấy men nồng chuyện cũ
Cho mình gặp lại mình
Nào rót nữa, uống đi
Nguồn say còn lai láng
Chén nhớ hãy rót đầy
Chén mừng đừng để cạn…
…Giá có giọng hát tươi
Ta cất rung trời đất
Được giải hết niềm vui
Lời say thường vốn thật
Kìa mặt trăng đêm nay
Tựa yên thành cửa sổ
Hẳn vì thấy ta say
Kê gối vào giấc ngủ“
Và bài tứ tuyệt “Tiếng Chuông Xóm Núi“: Một sự hòa quyện nhớ thương Quê Nhà da diết giữa Đạo và Đời:
“Ghé thăm chùa cổ, gặp Sư già
Nhận khách đồng hương, kể chuyện nhà
Xóm núi chiều nay kinh kệ vằng
Lòng Sư còn bận nhớ quê xa!“.
Nhà thơ Yến Lan đã viết những bài thơ về Quê Hương ông được tất cả ngưỡng mộ từ những năm đầu thế kỷ 20. Bài “Bến My Lăng“ và 2 bài thơ “Bình Đinh 1935“ - “ Bình Định 1945“ là những bài thơ bất hủ trong sự nghiệp thơ ca đồ sộ của Ông (10 tác phẩm đã được xuất bàn, trong đó có 2 kịch thơ, một truyện thơ - và nhiều truyện ngắn và thơ còn trong di cảo chưa có hoàn cảnh thuận tiện để giới thiệu) – đã chứng tỏ rất hùng hồn – suốt cuộc đời Ông đã hiến dâng cho Thơ, cho Quê Nhà, cho Tình Người, và cho Cuộc Sống đến hơi thở cuối vào ngày 5 tháng10 năm 1998 trên quê hương Bình Định của Ông.
Nhân cách ngời sáng của Ông đã có nhiều dịp chứng tỏ - ngay trong đời sống khốn khó, ngay trong những thử thách gian nguy – mà câu chuyện Ông đã một mình đi sau đám tang của nhà văn Phan Khôi (chủ nhóm NVGP) ở Hà Nội ngày nào để đưa tiễn một người Bạn Văn đang bị lên án, và xa lánh!
Ghi lại những dòng cảm nhận hôm nay về Nhà Thơ Yến Lan với tôi là một việc làm quá to lớn – nhưng tôi chỉ mong tỏ chút tình của người cháu nhỏ đồng hương đã hết lòng tri ân và ngưỡng mộ Ông – nhà thơ Yến Lan kính yêu với một nhân cách sáng ngời…
BÉN MY LĂNG
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng.
Chiều ngun ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng./.
Yến Lan
(Trích trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam)
Trần Minh Nguyệt sinh 1972 tại Tuy Phước Bình Định,
Đã xuất bản: 3 tác phẩm
- Nhà thơ Yến Lan, sáng ngời một nhân cách Trần Minh Nguyệt Nhận định
- Thân phận trí thức trong xã hội cộng sản (Đọc “Tuỳ Tưởng Lục” của Ba Kim) (Vũ Thư Hiên)
- Tuyên bố của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam về Giải Văn Việt lần thứ Ba (Văn Đoàn Độc Lập)
- Phê Bình Văn Học Hôm Nay: Phê Phán Nhiều, Sáng Tạo Ít (Vũ Tú Nam)
- Hà Minh Tuân: Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
(Lê Xuân Quang)
- Trần Đĩnh - Đèn Cù, Số Phận Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản (Diễn Đàn Thế Kỷ)
- Nghi Án 60 Năm (Trần Gia Phụng)
- Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn: Quang Dũng, ... (Lý Hồng Xuân)
- Thụy Khuê với Nhân Văn Giai Phẩm (Hồ Trường An)
- Ghi (1954 - 1960) (Trần Dần)
- Thụy An (1916-1989) (Thụy Khuê)
Về Kinh Bắc (Hoàng Cầm)
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt (Lưu Quang Vũ)
Đêm Giữa Ban Ngày (Vũ Thư Hiên)
Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất (Nguyễn Khải)
Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Ba Người Khác (Tô Hoài)
Đèn Cù - I (Trần Đĩnh)
Đèn Cù - II (Trần Đĩnh)
Thời Của Thánh Thần (Hoàng Minh Tường)
Trần Đức Thảo - Những Lời Trăng Trối
(Tri Vũ - Phan NGọc Khuê)
Chế độ kiểm duyệt sách báo tại Việt Nam
(Nguyễn Hưng Quốc)
Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm (Thuỵ Khuê)
Thụy Khuê và Nhân Văn Giai Phẩm (VietNam Film Club)
Phim tài liệu (VietNam Film Club, 2013):
Tập I: Nhân Văn Giai Phẩm
Tập II: Cải Cách Ruộng Đất
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |