|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Trạch Gầm
Có một người làm thơ đã cảm khái khi đọc xong tập thơ Trạch Gầm
Thức dậy đi – cõi mộng ta
Cuộc binh lửa chợt vỡ òa nỗi riêng
Dấu giày trận đã trăm miền
Trăng cổ sử vẫn còn nghiêng tháng ngày
Tưởng thời súng khoác trên vai
Mịt mù khói lửa dặm dài bước chân
Mấy chục năm chuyện phù vân
Giở trang thơ chợt tần ngần nỗi xưa…
Thơ Trạch Gầm. Là quặng nguyên sinh cuộc sống hôi hổi hơi ấm nhân sinh. Thơ tha thiết bởi những nỗi niềm ấp ủ. Dù rằng, cuộc chiến đã qua mấy chục năm, nhưng trong ký ức, vẫn đầy ắp tâm sự. Trong ngôn ngữ, có hào sảng chiến sĩ. Trong vần điệu tràn dâng chất chứa tấm tình. Một người lính, sống lại thời binh lửa mình. Một người bạn, nhớ về đồng đội cũ, người còn kẻ mất, trong thơ đồng vọng nỗi nhớ thương. Thơ Trạch Gầm, thơ của thời chiến tranh đọc trong thời hậu chiến, như dong tay trở về thời đại cũ, năm tháng xưa. Thời gian đã qua, đã coi như mất biệt trong cuộc sống nhưng vẫn còn hiện hữu trong những người cảm khái giơ û từng trang thơ. Có chút lành lạnh của đất trời len vào trong vần điệu tưởng tượng đến những ngậm ngùi thiên cổ, những giấc mơ của một thời thanh xuân đã tàn phai. Thơ không nuối tiếc nhưng đầy tràn cơn bão nội tâm dằn vặt.
Không hiểu sao, khi phác họa chân dung người lính, chúng ta hay thường nghĩ đến hình ảnh phảng phất men rượu, của “bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ dục ẩm tì bà mã thượng thôi/ túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Hình ảnh của Vương Hàn trong Lương Châu Từ đã thành một phiên bản chung. Nhưng ở thơ Trạch Gầm, men cay chỉ là một chất xúc tác, để nhắc về, và nhớ tới kỷ niệm. Không văn hoa, thơ rượu vẫn có âm vang của đời sống thực. Người lính đâu có muốn đóng vai kép độc anh hùng. Họ là một người bình thường trong cuộc chiến, yêu đồng đội coi đơn vị như mái ấm gia đình mình. Và vì thế họ chiến đấu dưới cờ, và mãi đến mấy chục năm sau vẫn còn tình còn nghĩa, như mấy câu thơ của “Nỗi nhớ vẫn y sì”:
Uống đi mày cứ làm thêm vài chén
Nhớ đừng say còn nghĩ đến Anh Em
Những thằng bạn của một thời chinh chiến
Đổi mạng mình… để lấy sự bình yên
Rượu mừng xuân, lưu vong... mùi cũng lạ
Thiếu nụ cười đến ngơ ngác, ngác ngơ
Đâu có cảnh chụm đầu cười ha hả
Trong gian nguy mặc sống chết đợi chờ…
Rượu, có khi dành cho người vắng mặt, cho những kỷ niệm quá khứ đã xa. Ngồi một mình, úp một ly. Cho đồi Tăng Nhân Phú. Cho đồi Miền Đông đất đỏ. Cho ba cô gái gọi là Tam Nương Phú Lợi. Cho vùng ngoài Biên Giới. Cho Bình Long rực lửa. Và kết cuộc một cơn say
Úp một ly... sao còn một ly ngửa
Phần của mày. ... không đợi nổi ngày vui
Chuyện thường thôi, chuyện rất thường mày hở
Biết thế nhưng tao cứ vẫn ngậm ngùi
Thơ tự nhiên, không màu mè son phấn. Thơ luận sự đời trong men cay, hào sảng, giang hồ. Sao trong cuộc đời này có nhiều hào sĩ. Nguyễn Bắc Sơn, Vũ hữu Định, Trạch Gầm.. Và bây giờ, có lý gì đâu quá khứ tương lai. Hiện tại phút này là nâng ly khề khà kim cổ sự…
Những địa danh, trong thơ Trạch Gầm, như những vòng nôi tưởng nhớ. Nhựng trận đánh không quên, những bạn bè anh em nằm xuống, những kỷ niệm của máu và nước mắt của một thời binh lửa. Những tên tuổi, tên vùng, tên đất, tên người, mỗi khi nhắc lại, là một nhói đau, là một bồi hồi không dứt:
Tao với mầy đạp chân qua bao bến
Bến Nẩy, Bến Mương, Bến Dược, Bến Đình
Đất Củ Chi nầy… mỗi lần nhắc đến
Đã đến rồi… thằng nào lại nỡ quên
Dân đánh đấm bọn mình thường lắm bạn
Địa danh nào chẳng có đứa đâu lưng
Có lắm lúc khề khà trong lửa đạn
Lại lắm khi ngồi cạn chén rưng rưng
Vào Trung Lập lại nhớ thằng Đỗ Bảy
Địa phương quân mà mun quá là mun
Vào cõi chết ỉ ôi cùng chia chết
Cầm súng lên rồi… trời đất bằng vung
Vào Tầm Lanh lại nhớ thằng Cương Địa
Bắt tay cười Võ Trường Toản ngày xưa
Mầy mò tới đâu thì tao tới đó
Dân Trinh Sát mà – bảo sợ – còn khuya
Vào dinh quận gặp thằng Ngôn Quân Báo
Mở bản đồ tìm điểm tối ăn sương
Gót Chảng, Hố Bò, Bầu Đưng, Thái Mỹ
Kéo trăng hạ tuần làm đuốc soi đêm
Gọi tên bọn mầy nhớ ơi là nhớ
Mỗi một địa danh… ấp lẫm ngậm ngùi
Người lính Trạch Gầm cũng có vài ba mối tình, cũng có lúc “khi lính đã yêu rừng tàn núi lở”. Nhưng, từ cổ chí kim, tôi chưa thấy ai “mày tao” với người tình như ông thi sĩ lính này. Tuy xưng hô mộc mạc như thế nhưng tràn đầy tình nghĩa.
Ừ gặp mày lòng tao vui thật đó
Mày có bề gì tao mất người thương
Mày đã cắp của tao từng nỗi nhớ
Như sao trời ăn cắp những giọt sương
Tao ở tù lâu, mày lấy chồng cũng phải
Tao ra tù… mày bán máu… đãi tao
Miếng bông băng trên khủy tay run rẩy
Tao khóc đã đời… mày hiểu tại sao
Ngày tao tha phương mày bỏ đi mất
Tao cô đơn như con sói lạc bầy
Tao mất quê hương lòng đau như cắt
Mày buồn hơn tao, phải vậy không mày?
Tao còn sống là tao còn vẫn nhớ
Ắt hẳn là.. mày cũng vậy phải không?
Là độc giả, tôi có cảm tưởng rằng Trạch Gầm đã có một tri âm tri kỳ chứ không chỉ giản đơn là có một người thương, một người tình. Dù chuyện kết không vui, nhưng cuộc tình đó có phải là một chứng tích rõ ràng của một thời kỳ tao loạn Việt Nam?
Là người lính, ai mà chẳng có lúc xài giấy ”năm trăm” hay ”một ngàn” trong ngôn ngữ khi lòng nổi cơn tức giận. Trạch Gầm cũng thế, trút nỗi thịnh nộ lên những tên Cộng sản bán biển dâng đất cho Tàu cho đế quốc Bắc Phương. Có người cho rằng mang tiếng chửi vào văn chương sẽ làm hạ thấp giá trị của nó. Nhưng tôi không nghĩ vậy ở trường hợp này. Là một người đã mang dòng máu Việt Nam thì không thể nào không phẫn nộ với loài bán nước. Cái xúc động của một người đã mang áo lính với tiếng chửi thề biểu tượng cho tình yêu nước nồng nàn của một chiến sĩ bộc trực. Tâm trạng ấy dễ dàng chia sẻ với những người cùng suy tư cùng yêu dân tộc yêu đất nước:
Đụ má cho tao chửi mày một tiếng
Đất của Ông Cha sao mày cắt cho Tàu
Ngậm phải củ gì mà mày cứng miệng
Đảng của mày, chết mẹ, Đảng tào lao
Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
Cầm súng làm gì… chẳng lẽ hiếp dân
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Tao rụng rời… trước tai ách ngoại xâm
Mầy vỗ ngực – Anh hùng đầy trước ngõ
Sao cứ luồn cứ cúi cứ van xin
“Môi liền răng” à thì ra vậy đó
nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh
Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
Thân phận mầy cũng là Lê, là Nguyễn
Hà cớ già mầy hèn đến thế sao
Chuyện mày làm Toàn Dân đau như thiến
Mầy chết rồi tao nghĩ chẳng đất chôn
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
Cứ đà này… chết tiệt còn sướng hơn…
Thơ tự nhiên bằng ngôn ngữ đời thường và biểu hiện được tâm tư một cách chân thực. Không bóng gió, lời thơ mạnh mẽ quất thẳng vào đối tượng như những quả đấm chính nghĩa ngàn cân.
Là người tù sau ngày bại trận, tuy cam chịu số phận nhưng vẫn ngang tàng không đánh mất tư cách chính mình. Ở Hoàng Liên Sơn, vẫn ngất ngưởng tâm tư, vẫn thơ vút cao lên trên thân phận. Thơ như một xác định chỗ đứng:
Lội suối băng rừng bao ngày mài miệt
Có mỗi quê hương ta đánh mất rồi
Nghe lời nhọc nhằn ta buông tay súng
Đứng giữa quê Cha ta khóc đã đời
Bây giờ nơi đây đất trời mù mịt
Ta tròng vào ta trăm tội vô duyên
Ngươi lải nhải đi- giáo điều mù tịt
Ta vẫn là ta… nỗi nhớ triền miên
Ta “kể” tội ra ta cười muốn chết
Ngươi như thất thần có phải vậy không?
Đúng là ta mà, ta dân Thám Kích
Đã từng rượt ngươi mờ mịt núi sông
Ta chỉ buồn ta, ta là dân Việt
Hoàng Liên Sơn này đáng lẽ của ta
Ngươi nói trăm điều: một điều không biết
Ngươi là thá gì mà… cải tạo Ta?
Những câu thơ, rồi những bài thơ, in đậm nét trong tôi những ấn tượng. Chia sẽ, có. Cảm xúc, có. Tôi hình tượng ra con đường mà thế hệ chúng tôi đã đi. Làm lính, làm người tù binh, làm người lưu lạc tha phương, chúng tôi hình như cùng nhau một mẫu số chung của dân tộc, của đất nước. Có khi chúng tôi mượn thi ca để nói lên nỗi niềm của riêng mình nhưng là đồng vọng của số đông cùng cảnh ngộ. Thơ có khi là một cách thế để sống còn, để qua đi những cơn bão giông thời thế. Tô Thức ngày xưa trong Nam Hành Tiền Tập Tự đã từng ví von rằng ông chỉ viết khi có những điều chất chứa trong tim trong óc nếu không viết ra như một giải tỏa tâm linh thì không thể nào chịu nổi. Không biết tôi có nghĩ quá không khi cũng cho rằng thơ của Trạch Gầm, lời của Trạch Gầm. Thậm chí cả đến những tiếng chửi thề bộc trực trong diễn tả, cũng là kết quả của những điều tâm sự chất chứa trong tâm trong óc đến nỗi nếu không làm thơ viết ra thì cũng không thể chịu đựng nổi…
- Thanh Tịnh và Tôi Đi Học Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc thơ Trần Vấn Lệ Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc Thơ Đường Ta Đi của Nguyễn Lê Minh Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Tưởng niệm Nguyễn Đức Lập Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Nguyễn Ðức Tùng: Từ “Thơ Ðến Từ Ðâu” đến “40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại” Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc Thơ Trạch Gầm Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- “Những chuyện rất Việt Nam” của tác giả Đỗ Tiến Đức Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Lệ Khánh, Em là gái trời bắt xấu Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
• Đọc Thơ Trạch Gầm (Nguyễn Mạnh Trinh)
Trạch Gầm, Thơ Với Gót Chân Người Lính Chiến (Vương Trùng Dương)
Người Lính Làm Thơ Mang Bút Hiệu Trạch Gầm (Đinh Lâm Thanh)
Mộ Kỷ Niệm Khó Quên Đầu Năm 2018 của Nhạc Sĩ Song Ngọc, Thi Sĩ Trạch Gầm, Ca Sĩ Thái Xuân Và 2 Tuần Báo Việt Tide – Thế Giới Nghệ Sĩ (thanhthuy.me)
Nhà Thơ Trạch Gầm Ra Mắt Sách 'Chôn Lầm Huyệt Nhớ' (vietbao.com)
Ra mắt sách “Chôn Lầm Huyệt Nhớ” của Trạch Gầm (Ngự Bình)
Nhà thơ Trạch Gầm ra mắt sách ‘Chôn Lầm Huyệt Nhớ’ (Lâm Hoài Thạch)
Giới thiệu sách "Chôn Lầm Huyệt Nhớ" của tác giả Trạch Gầm (vietvungvinh.com)
Nhà Thơ Trạch Gầm Ra Mắt Tập Thơ Thứ 2, Chủ Nhật 25-10 (Du Miên)
Trạch Gầm ra mắt tập thơ “Dấu giày chinh chiến” (Thanh Phong)
‘Nhốt Vòng Nhớ Thương,’ tâm tư của nhà thơ Trạch Gầm (Văn Lan)
Đọc “Ráng Chịu” của Trạch Gầm (vuthat.wordpress.com)
Bài trên mạng:
- batkhuat.net - Thơ Trạch Gầm
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |