5-4-2022 | VĂN HỌC

NGY-HỮU (*) – Vũng buồn tuổi máu

  TƯỜNG MINH


Về Ngy-Hữu cũng như về tất cả tác giả có thơ trong TTTN thú thật, tôi không quen biết ai hết. Tôi chỉ biết Ngy-Hữu là một nhà thơ quân đội qua cái KBC của anh thường kèm dưới bài. Còn cấp bậc gì ? binh chủng nào? bao nhiêu tuổi?… tôi không hiểu. Và biết Ngy-Hữu là quân nhân nhưng tôi cũng không biết là thứ lính kiểng hay thứ “ lính uýnh lộn” thật sự…


Lẽ ra những thắc mắc đó không liên quan, cũng không giá trị gì đến thơ, không làm cho thơ hay hơn hay, dở hơn. Nhưng tôi phải trình bày rõ như vậy để độc giả khỏi nghĩ tôi là bạn bè hay đã đớp hít gì của những tác giả trên đây, nên lợi dụng bài này để bốc thơm với nhau.


Nói như vậy tôi cũng không có chủ ý đề cao cái nết thẳng thắn đã gần như tuyệt ngõ trong cuộc đời này, tôi chỉ muốn nói rằng: Thơ là Thơ. Thơ không liên quan đến những phụ thuộc tô điểm chung quanh như có nhiều người vẫn tưởng.


Và bây giờ, tôi xin trở lại với những bài thơ của Ngy-Hữu.


Khoảng trên dưới 10 bài trong 47 số Tiểu Thuyết Thứ Năm (TTTN), thơ Ngy-Hữu hầu hết là thơ 8 chữ, kỹ thuật vững, vần điệu ôm tròn. Những bài thơ của Ngy-Hữu tỏ ra anh đã mất nhiều công phu tâm huyết tạo thành những ý tưởng thật chân thực, thật xúc tích – Thơ Ngy-Hữu dẫn nguời đọc đi theo cái trầm sâu u uất của tâm sự anh – không, tâm sự của lớp tuổi gian nan, đau khồ và hào hoa nhất của thế hệ này: Lính.


Xin hãy nghe những lời độc thoại của Ngy-Hữu trong “Nhập Cuộc” :


Gởi mùa xuân cho người vui với én

Tôi mang theo tiếng cuốc gọi giao thừa

Bia đá cũng buồn đêm hò hẹn

Lũ chim rừng lạc tiếng gọi vu vơ


và phải chăng đây là cái tâm trạng của lính trong những đêm “ nhập cuộc”:


Hào chiến đấu xé đôi miền đồng cỏ

Mắt cố nhìn tìm một dáng khả nghi

Chỉ có đêm với hành tinh dời chỗ

Và mầu đen mờ nước mắt trên mi .


Như vậy đó – Linh động và rõ ràng quá. Thơ Ngy-Hữu như một “bức tranh” thật sống thật tự nhiên, mà chỉ cần đọc qua người đọc cũng đã hình dung ngay được cái cảnh tên lính chiến nằm dưới hào sâu chờ địch, trong cái vô cùng của đêm và cái nặng nề chuyển xoay của vũ trụ. Để rồi, khung cảnh ấy – mắt trừng tìm dấu địch nhưng lòng ngổn ngang nghĩ đến thân phận :


Rồi cũng khóc như những lần nhớ mẹ

Lời ru trầm – ôi kỷ niệm thôi nôi

Ngậm vú sữa lớn theo dòng thế hệ

Mùa binh đao gươm súng vẫy tay mời

(tr.22, TTTN số156)


Bốn câu trên của Ngy-Hữu đã nói quá rõ ràng về số phận của lớp tuổi trẻ hôm nay: Lớn lên và đi lính – đi lính để rồi :


Xin dấu mặt sau trời khô lưả hạ.

Nhọc nhằn cầy trên thân phận anh em

Bước chân thú lén về khu đất lạ

Đêm tự tinh không đến thuở chinh yên.


Ngy Hữu ví mình như một con thú – một con thú về khu đất lạ nhưng rồi chả nhận được gì. Bởi :


Ngày vui đó bán dần cho cuộc chiến

Sách vở thiên thần ngủ buị chiêm bao

Nước mắt em đầy nguồn sông thánh thiện

Cũng không làm tươi mát tuồi xanh xao


Và bởi vì …


Bạn bè cũ đứa còn đứa chết

Thằng khóc thằng cười buồn quá em ơi

Vẫy tay chào 24 hè vĩnh biệt

Vết chém hằn sâu trong mắt trên môi

(Khoảng trống – tr 21 số 192)


Và trong niềm đau ấy, đêm đêm nằm gối đầu trên súng để nhớ mãi rằng :

“Chưa tròn yêu thương với em” , nỗi buồn như ngấm sâu thêm vào xương tủy, Ngy Hữu kể lễ với người yêu :


Hỏa tuyến trời làm mưa cuối năm

Di hài kỷ niệm mắt giai nhân

Cưu mang từ để quên thành phố

Với tháng ngày đi đàn bước thầm


Kỷ niệm còn lại là mắt em – mắt em cưu mang để quên thành phố trong những ngày, âm thầm, những ngày quằn quại trong nỗi cô đơn và, nỗi chết:


Độc điệu mồ côi và nỗi chết ,

Hằn sâu, chứng tích tuổi chinh yên

Vết đau đất mẹ buồn không khóc

Khắc khoải neo đầy trong trái tim


Cho dù…


Ba lô chất chật buồn khu chiến.

Đêm dạ yêu ma mắt rã rời.


Và…


Hầm mộ tương lai mờ khói súng

Đầu đường chinh chiến mộng buông xuôi

(Nói với em – tr16/ số 150).


Tuổi trẻ là như vậy – khắc khoải cô đơn với một “ba lô chất chật buồn khu chiến” với những “đêm đại yêu ma mắt rã rời.” Và Ngy Hữu:


Tháng giêng tháng chạp đong đầy nước mắt

Ngày tiếp nối ngày vác súng hành quân

(Khoảng trống – tr21 số 192)


Nhưng rồi… “không hành trang từ khu chiến tìm về ”, “áo trận vung đầy khói súng”, “Chiến sĩ” tìm được gì nơi thành phố thân yêu đầy kỷ niệm ngày xưa ?


Xin nghe Ngy Hữu trong “Chuyến về” :

Thép gai ngăn đường thành phố

Tôi nhìn cột điện bùi ngùi

Chuyến buýt đổ người thêm đông thành phố

Saigòn là một mình tôi

Em ơi! “Cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi”

Khó đi hơn con đường mòn biên giới

Tôi không hành trang từ khu chiến tìm về

Sao em không mặc áo trắng

Cho tôi thấy sương mù miền giới tuyến

Theo về thăm lại quê hương

Thăm những chiều Brodard, Pagode. Mai Hương

Có kỷ niệm chúng mình ở đó

Em cười trăng sao bỡ ngỡ

lời êm như tiếng ca Thanh Thúy, Hoàng Oanh

“Rồi chúng mình làm đám cưới nhé anh…”

Nhưng sao tôi trở về “ em không nhìn tôi phong trần mái tóc để tang cho bạn bè những thằng Phầm, thằng Tồn, thằng Thanh đã chết mà xưa kia em vẫn đòi kể chuyện mình cho bọn nó nghe” ? Và sao em không có mặt những nơi hai đứa hẹn hò :


Băng đá đó xưa có lần em khóc

Quán kem này em nũng nịu bảo ngâm thơ


…Nhưng “lâu quá không về phố cũ” nên “xa lạ rồi mỏi mắt yêu thương”. Nhưng cho dù có thể vẫn “xin cảm tạ vàng son quá khứ làm chim chắp cánh thiên đường”. Bởi vì…

Áo trận nung đầy khói súng…

Em nhìn tôi chắc không quên

Dù… .


Vương miện xưa cài tóc mộng

Bây giờ tôi cũng chưa quên

Thôi tạ từ kỷ niệm

Cám ơn em cho tôi phút nhớ xôn xao

Tiếng nói, nụ cười, môi hôn... xin một lần khâm liệm

Trong quan tài nước mắt chiêm bao


Và như vậy đó cho nên:

Chuyến buýt cuối cùng vòng quanh đường cấm

Thành phố lên đèn tôi đối bóng tôi

Bước đi đếm bước thầm – câm lặng

Sàigòn lạ một mình tôi..

(TTTN tr.27số 157)

Không hiểu Ngy Hữu đã phải chịu bao nhiên cay đắng uất hờn để làm được bài thơ đó ? Và không hiểu trên cuộc đời giữa thời buổi nhố nhăng quái gở này đã bao nhiêu thằng lính mang tâm trạng của Ngy-Hữu trong “chuyến về” tìm lại người yêu sau những ngày lặn lội với sự chết ?


Viết đến nay tôi muốn làm một việc rất riêng tư – muốn đặt một bàn tay trầm ấm lên vai Ngy Hữu – nhưng liệu cử chỉ này cứu chuộc được gì khi sau “Chuyến về” đó. Ngy Hữu:


Nhìn xuống bàn tay không đeo nhẫn một mình tôi kể lể

Bây giờ em bến đục bến trong nào ?

Ôi em kiêu sa, Sàigòn cao ngạo

Dưới ánh mặt trời tôi điên mê đốt đuốc đi tìm

Gác kỷ niệm phai mờ đêm đêm khóc thầm rỉ máu

Em vẫn khung trời say vút cánh chim


Và bởi thế :


Từ chuyến về, chiều mang ưu tư chất chật

Bỏ Sàigòn, Vũng Tầu, bỏ bè bạn anh em .

Miền tuyến lưả đìu hiu xa lắc

Tôi buồn làm trời Đà Nẵng buồn thêm

(Chuyến Xe Hoàng Hôn – tr. 9 số 176)


Để rồi từ bỏ anh em bạn bè trở về đất chết, Ngy Hữu “trần tình”:


Rồi người cũng như sương mù biển lớn.

Quên nụ cười sóng bạc gọi mùa Xuân

Loài chim én trốn vùng trời bão động

Lời hẹn hò du nước mắt tha nhân.


Bởi thế nhưng sao vẫn :


Sênh phách vỡ tường gương đêm mộng mị

Cày phiên buồn tay súng chợt hôn mê

Thê thảm tiếng trầm ca neo thế kỷ

Ngỡ ngàng rơi hầm mộ vọng âm về

Ngơ ngác lối trường phiên, chăn gió thú

Rèm hoả châu cày mưa muộn Cao nguyên

Hình hài rữa mòn cô đơn chiếm ngự

Mây lang thang xao xác đổ xa miền



Trôi dạo phiếm tơ trời vương tóc mật

Vòng suy tư nước lũ cuốn trôi dần

Và giận dỗi, lẫy hờn, rồi cũng khóc

Chuông mịt mờ khơi tưởng niệm bâng khuâng

Năm tháng súng cười nghiêng lòng đất vỡ

Điệu huê tình xa lắc lối tương tư

Đam mê cuối đong đầy nguồn thác đổ

Chuyén đò ma bôi vết tích sa mù.


Trong niềm đau tê điếng ấy, Ngy Hữu xin lời cầu nguyện cuối cùng :


Vườn địa ngục bụi tàn phai uá lá

Vòng thép gai quấn chặt xác hao gầy

Lời cầu nguyện cuối cùng van tận thế

Cho linh hồn quán trọ trót mang thai.

(tr.15/ số162)


Tôi nghĩ rằng không nên trách lời cầu nguyện cuối cùng của Ngy Hữu, bởi vì nó là sự thực – cái trung thực nhất của tảm hồn tác giả lúc đó, cũng nhờ tôi hiểu rằng trước “ Chuyến về”, Ngy Hũu đã từng. trong đau đớn quê hương chiến tranh, vẫn giữ được cải khi phách cao ngạo của đời trai trong “ Đêm Thiêng Đất Chết”:


Dấu chân lạc đi trên dòng máu mặn.

Tôi chợt cúi đầu xưng tội, ăn năn

Giáng Sinh đó – tử thi và súng đạn .

Chinh nhân hề, gươm súng động không gian.

(tr. 28/số 148)


Đó là những bài thơ của Ngy Hữu tôi đã đọc được trong TTTN 1967. Tôi nghĩ rằng không nên nói gì thêm nữa với hai câu trần thuật của tác giả:


Giữa đất mẹ yêu thương hồ đóng cửa

Bơ vơ từ tay súng sống lang thang.

(tr.25/số 150)


▄▄▄▄▄_____________________________________________

PHÂN ƯU


Được tin trễ,

NGY HỮU đã tử trận ngày 30 tháng 7 năm 1968

tại Vĩnh Điện (Hội An).

Thành thực chia buồn cùng tang quyến và bạn bè của HỮU.

Kính chúc linh hồn HỮU sớm siêu thoát.

– GIÃ NGUYỄN, NGUYỄN KHẮC NGHIỄM, TRẦN LÊ THỊ KHƯƠNG NINH, PHAN THỊ LẠC HÀ


▄▄▄▄▄____


TTTN 217

THƠ TRÍCH


Khoảng trống;       • Lòi đêm       Bài ca của tôi       • Nói với em

   :: Khoảng trống


xin dấu mặt sau trời khô lửa hạ

Nhọc nhằn cây trên thân phận anh em

Bước chân thú lén về khu đất lạ

Đêm tự tình không đến thuở chinh yên


Ngày vui đó bán dần cho cuộc chiến

Sách vở thiên thần ngủ bụi chiêm bao

Nước mắt em đầy nguồn sông thanh thiện

Cũng không làm tươi mát tuổi xanh xao


Bạn bè cũ đứa còn, đứa chết

Thằng khóc, thằng cười buồn quá em ơi

Vẫy tay chào 24 hè vĩnh biệt

Vết chém hằn sâu trong mắt trên môi


Vác súng hành quân Phú Gia, Đại Lộc

Việt Nam héo gầy nghìn tuổi gian nan

Tháng giêng tháng chạp đong đầy nước mắt

Ngày tiếp nối ngày vác súng hành quân.


NGY HỮU (KBC 3220)

TTTN 192




   :: Lòi đêm


Ghì huyển tượng nghe vỡ mòn tuổi đá

Tôi cúi đầu từ vắng sữa thôi nôi

Vùng biên giới tình sầu trong ý lạ

Mộng tàn khi khắc khoải sớm sang ngôi


Tiếp nối thời gian chuyện buồn miên viễn

Hành hạ cuộc đời héo hắt hồn đau

Hủy phá tình yêu chôn mồ kỷ niệm

Nỗi nhục nhằn theo ngày tháng lên cao


Súng đạn, quê hương, ngục tù, máu lệ

Bên cạnh con đường đi đến tương lai

Ở đó yêu đương một lần đóng cửa

Nói gì bây giờ – Sự thật hôm nay !


25 năm chở đầy huyền thoại.

Ngôn ngữ loãng vào âm vọng chiến chinh

Bước chân dẫm đạp đêm chừng nghi ngại

Lối rẽ phương nào đi đến bình minh ?


NGY HỮU




   :: Bài ca của tôi


cánh cổng sắt đứng im lìm nơi đó

chia hai trời ngăn mắt dõi đêm sâu

bên ngoài lửa cháy bùng trên máu đỏ

có tôi, anh âm thầm, lặng lẽ nhìn nhau


thuở khai sinh quê hương chào bằng tiếng súng

23 năm rồi điệp khúc đó không quên

giờ tay súng đi giữa trời bão động

nghe nỗi buồn len lén đến không tên


ôi tiếng khóc tiếng cười tôi man dại

hôn mê từ buổi học cuối cùng từ

khi đám bạn bè không trở lại

thầm hỏi rồi tôi có về không ?


nha trang, vũng tàu, sàigòn, thạnh phú

những chuyến viễn trìh làm tuổi trẻ đi hoang

nước mắt mẹ đong đầy trong lòng mộ

tôi cúi đầu chỉ còn biết ăn năn.


cơn giông lịch sử đem tôi về góp mặt

với chiến chinh bằng thân phận mồ côi

hơn một năm, hơn một lần tôi khóc

tin mẹ và tin bạn chết ở xa xôi.


máu lửa kéo thời gian dài vô định

hơn 20 đẩy những tóc ngả màu

ngày vui cũ không còn trong kiếp lính

quên dần bên gai thép trắng đâm sâu


bức tường đen cách ngăn sự sống

tạc đạn nào, ai bẫy ở sau lưng

một thằng bạn âm thầm gục xuống

tiễn đưa nhau loạt đạn sau cùng


mây thành kính vòng trường sơn màu lưả

vòng tay gầy không ôm trọn Việt Nam

giữa đất mẹ yêu thương hồ đóng cửa

bơ vơ từ tay súng sống lang thang


NGY HỮU




   :: Nói với em


Súng gối đầu đêm trắng một đêm

Gác sương heo hút bóng trăng chìm

Truông hiu hắt lạnh bàn tay nhỏ

Chưa gói tròn yêu thưƠng với em


Hỏa tuyến trời làm mưa cuối năm

Di hài kỷ niệm mắt giai nhân

Cưu mang từ để quên thành phố

Với tháng ngày đi đếm bước chân


Độc điệu mồ côi và nỗi chết

Hằn sâu chứng tích tuổi chinh yên

Vết đau đốt mẹ buồn không khóc

Khắc khoải neo đầy trong trái tim


Ba lô chất chật buồn khu chiến

Đêm dại yêu ma mắt rã rời

Hầm mộ tương lai mờ khói súng

Đầu đường chinh chiến mộng buông xuôi!


NGY HỮU

TTTN số 150

Người viết: Tường Minh

THT

(trích Tiểu Thuyết Thứ Năm số 193 năm 1968)


(*) Nhà thơ Ngy Hữu trong bài này không liên quan gì đến một nhà văn khác cũng có trùng bút hiệu Ngy Hữu trên văn đàn.

Tường Minh

Nguồn: Blog Trần Hoài Thư