|
Dương Quảng Hàm(14.7.1898 - 19.12.1946) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Nguyễn Lê Minh
Một đêm thức trắng để đọc một tập thơ? Có phải tôi đã đi ngược trở lại thời gian để thấy giờ khắc không còn ý nghĩa trước những nỗi niềm tâm sự chung mang của một thế hệ ? Hay tôi đang trong cơn đồng thiếp của lãng mạn cá nhân về cuộc chiến đã qua?… Có những bài thơ, trong một phút giây liên cảm, đã ở lại trong tâm trí tôi suốt một thời gian dài. Những câu chữ, như dấu đanh in vào gỗ, mỗi ngày mỗi sâu thêm và hình như bất biến cho đến lúc cuối đời.
Tôi nhớ cách nay hơn nửa thế kỷ, vào cuối thập niên 69, hình như là năm 1969, một buổi tối thứ bảy trong cư xá độc thân ở phi trường Nha Trang, một tên sĩ quan trẻ mới vừa trình diên đơn vị, là tôi, nằm khàn đọc báo trong cái không khí cô tịch và buồn tẻ của một ngày cuối tháng cạn tiền, tự nhiên như bị bật khỏi giường. Một bài thơ trên báo Khởi Hành như giòng điện chích vào tâm não và những câu chữ in hằn vào trí nhớ dường như chẳng thể nhòa phai. Thơ Nguyễn Bắc Sơn : Nếu mai đụng trận may còn sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm/ đốt tiền mua vội một đêm vui. Thật là cảm khái. Tuyệt vời!
Thơ không có Kinh Kha, Sông Dịch, không có kiểu “bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/ dục ẩm tì bà mã thượng thôi/ túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi “. Thơ trần trụi những cảm nghĩ ngang tàng của một người lính. Thơ như có đời sống phả vào. Linh động. Nhưng lạnh buốt. Những góc cạnh gai góc của cuộc sống như len vào trí nhớ và ở lại, thành những câu thơ vĩnh viễn trong bộ nhớ.
Bây giờ ở xứ người, một kẻ gần tuổi bảy mươi, là tôi, cũng nằm đọc thơ. Đường Ta Đi- Một Đoạn Đời Binh Lửa. Thơ của một y sĩ đại đội trưởng quân y của một lữ đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, bác sĩ Nguyễn Lê Minh. Thì mơ hồ cảm giác năm xưa thời tuổi trẻ lại trở về. Những bài thơ đầy ắp nỗi niềm một thời, hồi sinh lại những tháng ngày đã qua của cuộc chiến. Thơ không có những vẽ vời lãng mạn. Thơ đi thẳng vào lòng người với những hình ảnh rất đơn sơ gần gũi nhưng gợi lại trùng trùng những liên tưởng. Nếu tôi nhớ thơ Nguyễn Bắc Sơn vì cái phong thái ngang tàng tráng sĩ của ngôn ngữ thi ca thì với Nguyễn Lê Minh, những hình ảnh của cuộc chiến như những bức hình minh họa một cuộc tận thế. Một vài nét. Nhưng là cả một thế gian bi đát tận cùng:
”Một chiếc Honda chở hai cha con
đang len lách giữa dòng người hỗn loạn
bỗng người cha ngồi sau lưng trúng đạn
té xuống đường dẫy dụa rồi im
đứa con chưa biết vẫn còn
cố len cố lách vuột vòng hiểm nguy.
Một trái đan 130 ly
Rớt ngay lưng chiếc GMC đầy người
Thịt da tung tóe đầy trời
Trước ta rơi một thây người không chân
Một người mẹ bồng đứa con
Lội qua sông rộng trên đường tản cư
Sông thì sâu lòng mải lo
Lội qua sông rộng con so ngợp rồi
Nhìn quanh thiên hạ chạy vùi
Ôm con người mẹ toan ngồi khóc thương
Xung quanh đạn nổ dập dồn
Buông con chồng vội cuống cuồng kéo đi.”
Có người phê phán thơ mà vần điệu không chỉnh mà sao tôi tấm tắc. Thì lập tức tôi nghĩ rằng chính cái vần điệu ấy lại là một nét để cảm nhận của mình hằn sâu hơn với những hình ảnh mà suốt cuộc đời không thể nào quên. Ở cái cảnh trốn chết tìm sống ấy, hoảng loạn đến nỗi con quên cả cha, mẹ đành bỏ lại con để tìm đường sống còn thì xá gì những vần điệu lục bát để trần trụi những nỗi niềm chua xót của một thế gian tan vỡ.
Đọc “Những giây phút linh thiêng đời lính”, tự nhiên tôi nhớ lại những chiều nằm co dưới hố cá nhân ở phi trường Cù Hanh Pleiku mùa hè đỏ lửa năm 1972 khi mà ở toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, những hỏa tiễn Nga Xô tung tóe những cơn thảm sát. Nguyễn Lê Minh ở Quảng Trị hay tôi ở Pleiku cũng cùng một cảm giác và một cảnh ngộ của trò chơi đáo lỗ ma quỷ:
“ai dữ ai hiền
ai vinh ai nhục
ai tục ai tiên
ai hùng ai nhát
ai dại ai khôn
hãy im hãy im
ngồi yên trong hố
nghe tiếng pháo đi
chờ viên đạn nổ
hơi thở ngàn cân
nhịp tim thoi thóp
Phật Chúa hiện về
mẹ cha tụ họp
Thiên đường địa ngục
Trong lỗ hố nông
Trong phút linh thiêng
chờ viên đạn nổ
….
Giây phút “linh thiêng”, có lẽ là giây phút bắt đầu trái đạn “ depart” rồi ù ù trên đầu không biết sẽ “ thảy lỗ” vào đâu, xa gần chưa thể biết. Giây phút chờ đợi nghẹt thở khiến đời sống căng ra trên mù mịt và tất cả sự kiện sự vật trên đời tự nhiên vô giá trị, nó hụt hẫng làm con người như vô tri giác. Tôi nhớ tôi đã sợ cái giây phút chờ đợi ấy, mắc áo giáp nón sắt đủ lệ bộ và cầm quyển truyện kiếm hiệp Kim Dung đọc cho có đọc để quên đi giây phút sống của chính mình. Tôi nhớ có lần một trái hỏa tiễn 107 ly nổ cách hố cá nhân của tôi chừng hai thước. Khói súng mù mịt, đất rơi ào ào, tôi như lịm đi không biết gì cả cho đến khi mọi người kéo lên nhìn vách tôn hangar miểng đạn găm như mặt rổ nhìn thấy rùng mình.
Thơ Nguyễn Lê Minh không mô tả sự thực mà chính nó là sự thực khiến người đọc như đối mặt với sự kiện ấy. Cũng như ông làm thơ. Một ngày như mọi ngày:
“trăng nhợt nhạt xác ma
trăng rơi như hòn đạn
một ngày đến vỡ òa
vang rền xích thiết giáp
ngày qua như ngày qua
như mọi ngày rền rỉ
rền rỉ chiếc băng ca
rền rỉ đôi tay bẩn
vuốt mãi những xót xa
vuốt mãi những cặp mắt
xiết mãi những garot
làm mãi những động tác
những động tác mù lòa
cái miệng một điệp khúc
“ cố lên chút nữa thôi”
người thương binh nhăn mặt
người thương binh mắm môi
người thương binh cười gượng
người thương binh im hơi
ta không là linh mục
ta cũng chẳng là sư
ta chỉ là y sĩ
thằng y sĩ dại khờ
thầy tu bất đắc dĩ
tay vuốt mắt miệng la
“cố lên một chút nữa”
…..
Có một bài thơ khá dài, tôi đọc trong nhịp thở hổn hển của cảm xúc. Tôi đọc lại một lần nữa, phân vân không biết nên trích đoạn bài thơ này không trong bài viết đã khá dài này. Rồi một lần nữa, thôi đành nhìn bức hình in kèm bên cạnh để đọc cho chính tôi và có thể những độc giả khác những âm vọng tàn khốc của chiến tranh. Người lính Việt Nam Cộng Hòa, với những tâm tình thật nhân bản trong cảnh huống ấy đã hỏi mình, hỏi người về một thực tế chiến tranh đau xót của quê mẹ. Khác với sự xung sát khốc liệt không có tính con người kích thích bằng tuyên truyền giả dối của người lính phương Bắc, những câu thơ rất “ người” có lẽ phải được ghi đến đời sau những nỗi niềm của một thời đại thanh niên lớn lên và trưởng thành cùng lửa đạn. Một đoạn trong bài thơ ”Sắc Màu Chinh Chiến“:
Vì ai ta chiến đấu
Vì ai ta hy sinh
nhìn quanh ta chỉ thấy
đâu đâu cũng Việt Nam
một màu da vàng héo
một thân thể dập bầm
cứu ai? Mình, ai cứu?
Giết ai? Ai giết mình?
người nào là thù địch?
người nào là anh em?
Chủ nghĩa nào trong sáng?
Chủ nghĩa nào hôi tanh?
Chủ nghĩa nào màu đỏ?
Chủ nghĩa nào màu xanh?
Giết người vì gì nhỉ?
Vì lý tưởng? Vì mình?
Vì tự do? Xiềng xích?
Vì nhục nhã? Vinh quang?
Cặp mắt ta ngầu đỏ
Vì thương xót? Hờn căm?
Làm sao? Làm sao biết?
Con tim ta thất thường
Đôi khi đen thù hận
Đôi khi tím bi thương
Đôi khi hồng phẫn uất
Đôi khi xám chán chường
Đôi khi là lẫn lộn
Xám
Đỏ
Tím
Hồng
Đen
Đọc tập thơ, loay hoay cả đêm. Muốn viết thêm . Muốn đọc thêm. Những bài thơ về đời lính quân y với nhửng chú lính ”rằn ri” rất ngầu nhưng cũng rất dễ thương chia sẻ nguy nan cực khổ của tiền tuyến:
“ có những lúc trong hầm chịu pháo
mấy thầy trò lơ láo nhìn nhau
tên tựa gối tên cúi đầu
tên vò lỗ rốn tên chau đôi mày
cũng có lúc phố phây phây dạo
mấy thầy trò ngổ ngáo nghênh ngang
rượu chưa say đã tàng tàng
lè nhè ong bướm cô hàng mấy câu
cũng có lúc rầu rầu nét mặt
tiền lương vừa mới lãnh buổi chiều
nửa đêm túi đả bèo nhèo
thập thò trước võng, khều khều Thầy ơi!
Trời đã gần sáng. Qua một đêm dài đọc một tập thơ tôi đẩy cửa kính bước ra vườn. Gió biển mát lạnh.. .Nhưng sao tôi vẫn thấy thiếu một điều gì chưa viết được về những câu thơ lùng bùng trong óc. Vẫn chưa viết được về những câu thơ đã đọc vang vang. Về những đoạn đường mà nhà thơ Nguyễn Lê Minh đi qua. Những” Dấu Chân Cọp Biển”, những “ Ngày Tháng Cũ”, những” Mùa hè Đỏ Lửa”, những “ Đại Lộ Kinh Hoàng” Ô! Sao nhiều quá nhỉ? Tôi tự hỏi. và tự trả lời. Làm sao đầy đủ được để nói lên những nỗi niềm của một thời đại chúng tôi, một thời đại làm con tin và cũng là chứng nhân của lịch sử chiến tranh…
- Thanh Tịnh và Tôi Đi Học Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc thơ Trần Vấn Lệ Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc Thơ Đường Ta Đi của Nguyễn Lê Minh Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Tưởng niệm Nguyễn Đức Lập Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Nguyễn Ðức Tùng: Từ “Thơ Ðến Từ Ðâu” đến “40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại” Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Đọc Thơ Trạch Gầm Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- “Những chuyện rất Việt Nam” của tác giả Đỗ Tiến Đức Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
- Lệ Khánh, Em là gái trời bắt xấu Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định
• Đọc Thơ Đường Ta Đi của Nguyễn Lê Minh (Nguyễn Mạnh Trinh)
• Đọc "Đường Ta Đi," Một Đoạn Đường Binh Lửa (Nguyễn Ngọc Bảo)
• Những người chiến sĩ đáng hãnh diện (Ngô Nhân-Dụng)
- Quân Y Sĩ Nguyễn Lê Minh Ra Mắt Thơ “Đường Ta Đi, Một Đoạn Đời Binh Lửa” (vietbao.com)
- Thơ Nguyễn Lê Minh – “Đường ta đi” (trầm hương)
• Trang Thơ (Nguyễn Lê Minh)
• Tâm Tình Về Tập Thơ 'Đường Ta Đi Một Đoạn Đời Binh Lửa' (Nguyễn Lê Minh)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |