6-6-2020 | VĂN HỌC

Nguyễn Dương Quang, Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình

  PHẠM VĂN NHÀN


   Nhà thơ Nguyễn Dương Quang
   (1945 - 29.4.2020)

Tôi biết nhà thơ Nguyễn Dương Quang vào những dịp nghỉ phép về thăm nhà. Gặp và quen Quang từ nơi nhà anh Từ Thế Mộng.


Với Nguyễn Dương Quang không lạ gì với những anh em cầm bút ở Phan Thiết nói riêng, và Bình Thuận nói chung. Cái thời mà trước năm 1975 khi nhà thơ còn là một người lính thuộc tiểu khu Bình Thuận. Nguyễn Dương Quang đến với anh em văn nghệ ở quê tôi, có lẽ ngoài tài làm thơ ra còn do tính tình của một người lính rất "dễ thương" và vui tính nữa. Một người lính biết ôm đàn ca hát, mỗi khi gặp anh em trong những buổi sinh hoạt văn học tỉnh nhà khi Quang không bận quân hành.


Dù trước 1975, thơ của Quang ít xuất hiện trên các mặt báo ở Sài Gòn. Nhưng, không hẳn phải bắt buộc có thơ đi trên các báo, dù là báo gì, tạp chí hay nhật trình mới phải gọi là nhà thơ. Đối với tôi không nghĩ như thế. Nhưng với Nguyễn Dương Quang, chỉ một vài bài thơ trên Khởi Hành đã làm tôi rất cảm kích về thơ của Quang. Như trong bài: Đêm Cuối Năm Viết Thư Cho Má đã làm giao động nhiều người đọc, Nhất là tôi, một người lính xa nhà, đọc những câu thơ của anh nghe xót xa lắm. Xót xa cho thế hệ chúng tôi. Có ai muốn cầm súng bắn vào đồng loại của mình. Bắn con vật còn chưa muốn kia mà, huống hồ... Cho nên, những câu thơ anh làm, như:

Hình như cây súng con lạ lắm

sao nó run lên khi đạn lên nòng

tâm hồn nó như tâm hồn con vậy

một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?


Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu

đêm thì thầm cùng những đám xương

ôi! trái tim con mãi tôn thờ má

đã dạy con hai tiếng yêu thương.

Vâng! Trái tim con đã tôn thờ má/ Đã dạy con hai tiếng yêu thương. Ngay từ vỡ lòng người mẹ nào cũng dạy con "hai tiếng yêu thương" để làm hành trang vào đời. Cho nên, với Quang cho dù anh có bơ vơ giữa cuộc phù sinh, thì trong cuộc đời binh nghiệp, Quang vẫn ngóng về mẹ, với một tấm lòng của người con:


Thôi, má ngủ đêm nay thật ngon giấc

con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà

đạn vòng cầu đừng đi trong đêm tối

lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa


Thơ đến với Quang rất tự nhiên như hơi thở. Mà tự nó đã nói lên được cái tâm thiện của ngừi lính trận. Với những câu thơ phát xuất từ một tấm lòng nhân hậu, mới biết chỉ có Nguyễn Dương Quang trải lòng qua bài: Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá:


Dù đợi người qua trên lối chết

lạ sao ta thấy rất bâng khuâng

có rất nhiều điều thật khó nói

đêm sơ giao sẽ chỉ một lần


Để rồi trong nổi cô đơn cùng cực, Quang đã trút hết tâm sự của mình lên trên những thứ vô tri vô giác như cỏ cây. Nhưng cũng chính từ những ngọn cây ngọn cỏ đó trong đêm kích trên đồi Pá đã làm cho tâm hồn một người lính thuần hậu như lời khuyên của mẹ ngày nào. Phải như thế thì cái tâm từ bi của người lính trận mới hạnh thông. Hạnh thông từ con người cho đến những ngọn cây ngọn cỏ bên anh. Ta hãy nghe Nguyễn Dương Quang với những câu thơ sau:


Cỏ ơi, có thấy ai trên đồi

vẫn thường vác hận thù đi xuống?

mà sao ta thấy cỏ không vui

cỏ lạnh lùng hơn là sương mỏng


Để rồi Quang tâm sự:


Cỏ biết không, ta không lòng thù hận

lũ chúng ta một lũ thế thôi

ngày mai cỏ sẽ thành đồng lúa

cỏ sẽ thấy người nắm tay người.


Chỉ mấy câu thơ này thôi ta mới thấy được "tâm" của người lính Nguyễn Dương Quang. Cái ao ước rất đơn sơ của người lính thật bình thường: ngày mai cỏ sẽ thành đồng lúa/ cỏ sẽ thấy người nắm tay người. Tôi mượn câu viết của anh Đặng Tiến khi đọc thơ của Nguyễn Dương Quang: chất trí tuệ quyện vào tâm huyết, hồn nhiên mà điêu luyện. Tình cảm chìm chìm mà ý tứ lâng lâng... Đọc những câu chữ của anh Đặng Tiến viết về Quang, tôi lại nhớ vào năm 2006 Tập: Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến anh Đặng Tiến viết lời giới thiệu cho tập thơ mà anh Trần Hoài Thư sưu tầm được để in thành sách của những nhà thơ miền Nam trước 1975. Anh viết về Quang: Tác giả ít được biết đến, nhưng bài thơ hay quá...(bài: Đêm Cuối Năm Viết Thư Cho Má. Và bài: Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá). Sau đó, anh có gởi email qua cho tôi hỏi về Nguyễn Dương Quang. Chính hai bài thơ này, chị Đặng Tiến đọc và nói thơ quá hay. Anh đã nói với tôi qua email như thế. Đã lâu rồi, từ năm 2006, thế mà tôi nhớ mãi. Năm 2014 tôi về thăm nhà vào dịp giỗ anh Từ Thế Mộng, Nguyễn Dương Quang từ Đà Lạt xuống thăm, tôi nói lại cho Quang nghe về những gì anh Đặng Tiến hỏi về Quang qua những bài thơ của Quang làm.


Với Quang, ai gặp anh thời đó mới thấy hết cái "bất cần đời" của người lính trận. Tôi nhớ nhà thơ Lâm Hảo Dũng khi nhận giấy nhập ngũ, anh viết: Ừ! Thì lính... ba chữ viết thôi nghe thật nhẹ tênh như cánh diều. Không bận tâm. Ừ! Thì lính. Cũng như nhà thơ Từ Thế Mộng khi nghe bạn anh vào lính, anh viết: Nghe ngươi vào lính, ta đang lính/ Súng đạn như đùa với kẻ thơ.


Cho nên, qua con người thật của Quang ngoài đời, thơ của anh cũng đã mang tính "bất cần" và "lãng tử" như trong bài "Chiều Trên Rừng Trong Mật Khu Lê Hồng Phong" . Quê tôi ai cũng biết mật khu này thời chống pháp. Mật khu lừng danh của một thời dân ta đánh giặc. Với CTNM làm bài Vĩ Cầm nói lên thân phân của người dân quê tôi cho con cháu nghe thời chiến tranh Pháp Việt... cũng từ mật khu này.


....

"Cây violon con cầm

Có đồi cát mênh mông

Có đớn đau nát lòng

Và dấu chân ba

Bước qua số phận

Có đám xương rồng

Có lọn cỏ long nhong

Lăn hoài theo triền dốc

Như cuộc đời

Lăn mãi mãi không thôi..."


Còn Nguyễn Bắc Sơn cũng viết một bài trong mật khu này:


....

Đêm nằm ngủ võng trên cồn cát

Nghe súng đằng xa nổ cắc cù

Chợt thấy trong lòng mình bát ngát

Nỗi buồn sương khói của mùa thu

....


Còn Nguyễn Dương Quang thì khác. Chất lãng tử trong người lính khi hành quân trong mật khu Lê Hồng Phong:

Cây khẩu cầm mang theo ngày cầm súng

mi sol... sol mi do fa...

ôi khúc O'cangaceiro dồn dập

nửa đời ta một thuở không nhà


Ngồi trên cát nhai thịt dong nướng

vẫn ngon hơn Đồng Khánh với gà quay

ngu quá đỗi quên mang theo xị đế

thắp cho đêm còn có chút mặt trời


Dăm tiếng nổ mon men bên triền dốc

vài ba anh du kích, mấy A.K

ta quơ súng, bỏ dong cho đàn kiến

mi sol... sol mi do fa

Để rồi những câu thơ trong bài: Đêm Kích Dưới Chân Đồi Pá. Ta thấy được nỗi mong của người lính trận. Đó cũng là mẫu số chung cho tất cả người cầm súng hôm qua, khi nhìn thấy những cánh đồng lúa bỏ hoang trên những bước quân hành mà anh đi qua. Niềm ao ước đó của nhà thơ thật "nhân hậu"


Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác?

súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày

mỗi ba trăng lúc vàng tròn hạt

chim sẽ ca và gió thổi lúa say...


Nhưng với Quang, chiến tranh thì mặc chiến tranh. Súng đạn thì mặc súng đạn. Người thơ vẫn mơ. Một giấc mơ tầm thường: "ta vừa nghĩ một điều rất tầm thường: ngọn đồi này mai sẽ thành rẫy/ bỡi lòng người lúc nào cũng đẹp/ dẫu tầm thường cũng rất mến thương..."


Đọc thơ Quang, như đưa tôi về một miền quê yên bình nhưng đầy gian khổ trong thời chiến ở quê tôi. Thế rồi, cũng với cái tâm không hận thù ấy. Trong bài Ngày Về, Quang vẫn tự tại, ung dung lên non phá rẫy. Có lẽ những ngày này Quang vui như con chim rừng. Anh viết:


Cải tạo về, lên non phá rẫy

Vợ lo phe phẩy, ta tiều phu

...

tả xung hữu đột tan cây cỏ

thoáng chốc một vạt Đông Trường Sơn

súng đạn thua rồi, nay trận rựa

chiến chinh, chinh chiến ta coi thường...


Rõ ràng dù có lận đận lên non phá rẫy thì tâm hồn Quang vẫn vô tư và tếu: Lâu lâu về xóm vợ mừng rơn/ đáp đền sông núi như tân hôn/ bốn thế hệ nồi bo bo nóng/ má em hồng hơn bà Tú Xương"...


Để rồi trong suốt cuộc đời bên trời lận đận ấy. Cuộc sống của nhà thơ vẫn là cuộc sống bình thản, thương tất cả, như:... "lòng yêu núi Thái/ Lòng lội ngược nguồn/ Lòng ơn chữ cái/ Lòng rũ tắm sông/ Lòng nâng ly rượu/ Lòng say đóa hồng..." Những câu thơ ấy đã gói trọn, hay ôm trọn cuộc đời của Quang qua 70 năm với những con chữ thấm đẫm lòng người. Từ những vần chữ cái học vỡ lòng, từ một nơi chốn quê, từ nơi bạn bè, từ nơi chồng vợ và tình mẹ cha cao vời như núi Thái Sơn. Nhưng, với tôi đọc thơ Nguyễn Dương Quang, tôi mới nhận ra hết được đời của Quang, qua bốn câu thơ làm tôi phải suy ngẫm:


"Ta đã sống những ngày như đùa

Với trần gian mù mờ vinh nhục

Vô ích như lời thơ tiếng hát

Chuyện đời ai luận lẽ thắng thua".


Houston, đêm 17 tháng 1 năm 2015


Phạm Văn Nhàn

Nguồn: 21 Khuôn Mặt Văn Nghệ Miền Nam