|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Mạc Phương Đình
Đây là tập thơ thứ ba của nhà thơ Mạc Phương Đình sau hai tập thơ Lời ru của mẹ, Những dòng kỷ niệm. Ba thi tâp đều do Yêu Thương xuất bản. Cách trình bày bìa sách và ruột sách thật đẹp. Bìa màu lục nõn, hình màu hoa dã tưởng (không biết là hoa gì) màu cam lan ra chót đuôi màu hoàng cúc trên nền lục đậm lan vào trong màu tím tươi và màu mạ non. Chữ ru người màu trắng, chữ ru đời màu hoàng yến. Những trang trong của thi tập màu khói lam chập chờn dáng khói hình sương màu bạch phấn. Đó là công trình của họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp.
Đã có lời khuyên của thi sĩ Gérard de Nerval: Hãy gieo cánh hồng / Trên bước thời gian hoặc một câu thơ của nữ sĩ Natalie Cliford Barney: Trái tim không bao giờ trống rổng / Bóng hình nọ tắt đi / Sẽ thay vào một hình bóng khác. Nhưng nhà thơ Mạc Phương Đình của chúng ta vẫn buồn khổ dài lâu. Xin cùng đọc bài Thì thầm:
em đi con bướm buồn ngơ ngác
dáng đứng sầu xưa nhánh liễu gầy
xa dáng mầu trời đang ngã xuống
cỏ non mềm mại khép đôi tay
ngõ thơ từng nhánh trôi thành lệ
còn chút niềm riêng cay mắt cay
dõi bóng thời gian chìm lặng lẽ
dấu xưa người khép tự phương này.
(trang 45)
Bài thơ nào có những câu rõ nghĩa quá thì khó làm cho chúng ta không còn thú vị gì nữa. Cách đây một phần ba thế kỷ Xuân Diệu đã làm những câu:
Lá hồng rơi lặng ngõ thuông,
Sương trinh rơi kính từ nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông hường
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nhà thơ luôn luôn phải tìm cho thơ một vài chỗ ẩn núp để người đọc tưởng tượng thêm một thế giới kỳ thú riêng, Thơ mà chữ nghĩa rõ ràng bộc tuệch tức là chữ đâu nghĩa đó chỉ tổ làm cụt hứng khách sành điệu. Thơ của Mạc Phương Đình làm bút giả HTA cảm nhận cái thú vị cái chữ nghĩa bóng bẩy và tình ý mờ mờ ảo ảo. Nhờ vậy cái tưởng tượng của bút giả thêm phong phú và tràn ngập những màu sắc lộng lẫy.
Chúng ta thử đọc thêm bài thơ Dấu tường vi để gặp đường lối sáng tác độc đáo của Mạc tiên sinh :
hạ hồng còn đậu trên cây
nghe như thu đã heo may về nhiều
gói từng nỗi nhớ buồn thiu
tưởng còn in lại dáng kiều ngõ xưa
ngẩn ngơ lá cũng sang mùa
theo tường vi phía bên chùa nở hoa
em từ mất dấu thu qua
để vành trăng khuyết trong ta vỡ rồi
chuông thu rụng tiếng bồi hồi
đêm tường vi cũng rã rời bay theo.
(trang 202)
Những nhạc sĩ như Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Văn Đông, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Trịnh Công Sơn đều đặt lời cho nhạc phẩm của họ mờ mờ tỏ tỏ rất đẹp, rất thơ. Ai có thể ngờ Trúc Phương sáng tác nhạc phổ thông cho dân chúng tầng lớp bình dân mà đặt lời rất kiêu sa có khi thấm nhuần những sinh quan rất trí thức. Tôi lấy làm lạ các nhà thơ hải ngoại rất nhiều nhưng lời thơ đẹp không có mấy ai. Đọc thơ của Mạc Phương Đình tôi mới gặp một nhà thơ đáng lý phải đăng trên những tạp san văn chương nổi tiếng như Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn, Làng Văn, Thế Kỷ 21 mới xứng đáng.
Nào, chúng ta làm cuộc viếng thăm trong thế giới Ru người ru đời để tìm nguồn sáng tạo của Mạc Phương Đình qua bài Gõ cửa:
heo hút dấu trên vuông trời chữ nghĩa
ta tìm em, mưa biển vắng xa xăm
đêm thức ngủ giật mình như bóng vía
lời gọi em khan cổ một vầng trăng
chút hoài nghi có vùi trong gió tuyết
em xa xôi còn giữ chút hương nồng
sao vội rớt những dòng thơ ly biệt
cho nỗi buồn trải xuống cõi mênh mông
(trang 20)
Và đây là bài Lời dặn dò:
thôi nhé đừng buồn trăng đã rụng
sương mưa phủ kín lối em về
còn đâu hoa tím vây đường nhỏ
một thoáng bàn tay bỗng tái tê
thôi nhé đừng buồn chim đã bay
cuối trời đông lạnh chút heo may
dửng dưng mưa nắng ngoài hiên lạ
còn nợ ngày xưa một nét mày
(trang 148)
Cái độc đáo trong thơ Lời dặn dò của Mạc Phương Đình là những câu tầm thường nhưng khi chui vào thơ vẫn là câu rất thơ. Chúng được tác giả sấp xếp cách nào để tình ý đan vào nhau rạng ngời óc sáng tạo. Miền Trung của đất nước chúng ta, từ Quảng Trị trở vào, sau năm 1955 có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng như Tường Linh, Hà Nguyên Thạch, Thành Tôn. Luân Hoán, Hoàng Lộc Võ Chân Cửu ... Ra hải ngoại lại có Mạc Phương Đình gốc người Quảng Nam. Nhưng trong thi tập Ru người ru đời, tác giả đôi khi nhắc tới thành phố ấy. Riêng bút giả HTA nói tới Quảng Nam là nghĩ tới sông Thu Bồn nước trong vắt, những vườn mít chín, món mì Quảng. Hình ảnh cố hương không được bao nhiêu. Anh có nhiều điều phiền muộn, nhiều ưu tư, nhiều nhớ nhung luyến tiếc trong cuộc sống tha hương.
Nói chung đa số thi nhân đều làm thơ buồn. Bài thơ Về ngắm lại quê xưa có thể chuyên chở niềm bâng khuâng luyến tiếc khi nhà thơ thăm lại những địa danh trong vùng châu thổ tỉnh Quảng Nam:
ta về ngắm lại dòng sông cũ
ơi đất Tam Kỳ yêu dấu ơi
còn đó bên sông cây liễu gảy
người xưa đâu nhỉ? vắng lâu rồi
Kỳ Hưng tháp đỏ phai màu gạch
Cầu sắt nghiêng soi bóng nước trôi
Phường Một rực vàng màu hoa cải
nhà Thờ lặng lẽ đứng mồ côi
đâu trường Nguyễn Dục thời xa vắng
mất dấu như em, bốn hướng đời
Lợi Ký đẩy Thuyền qua bến lạ
Cơm gà còn nhớ khách ngược xuôi
chân qua Tịnh độ nhìn hoa sứ
vọng tiếng chuông khua bước rã rời
Nam Ngãi ngày nào trang sách mở
cúi nhìn Cầu Cống sầu khôn nguôi
cọc đèn xanh đỏ như trơ trẻn
ngắm dãy xe thồ đứng xả hơi
tất bật chợ đùn quang gánh nhỏ
người qua không nhận dấu chân người
ngả lên Tiên Phước nghe mùa gió
gửi chút hương nồng mẹt cá tươi
Chợ Mới trôi về cùng quá khứ
bâng khâng như kẻ bước qua thời
rêu phong Khổng Miếu hàng cây rũ
ga vắng chiều xa mây vẫn trôi
(các trang 76,77)
Thuở trước tôi đọc tình yêu quê mến đất trong thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà qua thi tập Lúa sạ miền Nam. Nhưng thơ của ông rõ nghĩa, ý tình bộc lộ quá nhiều nên làm cho tôi thiếu suy tư, thiếu tưởng tượng. Nhưng những câu thơ trong bài Về ngắm lại quê xưa ý tình kín đáo, tâm tình không quá lõa lồ. Thơ như thế nầy làm cho mỗi độc giả xây đấp một thế giới tưởng tượng riêng, dù những thế giới của mỗi khác nhau, nhưng chúng có một tình cảm chung: tâm sự người bỏ quê bồi hồi gợi lại những kỷ niệm xa xưa trên từng địa danh trong vùng đất quê hương.
Chúng ta đã từng cảm kích tâm tình tha hương của nhà thơ Alphonse de Lamartine (1790 1869) qua bài Milly, la terre natale (Milly, mảnh đất quê hương). Bài thơ nầy vẫn là bài tuyệt vời, tâm tình cổi mở thiết tha. Nhưng nó xa cách với nhà thơ chúng ta hơn ba thế kỷ rồi. Có thể chúng ta vẫn làm những bài nhớ đất mến quê, nhưng phải bằng ngôn từ khác, kín đáo hơn, gợi công phu sáng tạo hơn. Điều ấy Mạc Phương Đình đã nắm bắt được, và đã áp dụng trọn vẹn trong thơ của anh. Chúng ta là kẻ đến sau, một mặt phải tô điểm công phu của tiền nhân, nhưng chúng ta đâu thể dừng chân nơi đó. Chúng ta phải ngóng về phía trước, sáng tạo mới hơn. Giữ cái cũ tức là bị chôn vào những lớp mới, càng lúc càng thụt lùi. Tinh thần sáng tạo càng lúc càng mai một đi.
Niềm nhớ quê nhà được thể hiện qua bài Hẹn về thăm. Ở đây tác giả không ghi từng địa danh nơi cố quán. Anh hẹn về thăm suốt bốn mùa. Đề tài trong thơ anh giản dị. Nhưng chúng ta cũng thừa biết chọn đề tài không quan trọng bằng diễn tả đề tài. Đề tài nhớ quê đâu có sâu xa gì cho cam. Vậy mà Mạc Phương Đình biến niềm rung cảm đặc thù của anh qua những câu thơ chân thành, qua những chất liệu khơi ngọn trào lòng cho những ai có cùng tâm sự với anh. Xin cùng đọc bài Hẹn về thăm:
những sáng mùa Xuân hoa nở rộ
đàn chim nào hót ở bên hè
tung tăng áo mới về thăm Ngoại
nhà cổ hai gian, cây phủ che
mùa Hạ hương sen lan ngào ngạt
trưa nồng vườn rộn tiếng ve ve
sân Thu vàng rực màu hoa cúc
tháng tám đèn trăng sáng bốn bề
lớp học thơm từng trang sách mới
chưa Đông mưa gió đã lê thê
thôn nghèo lo bão về đâu đó
cây cỏ buồn hiu cảnh não nề…
nhớ đủ bốn mùa, bao kỷ niệm
bâng khuâng hẹn mãi vẫn chưa về.
(trang 55)
Và đây là bài Một lần trở lại. Ngôn ngữ thơ được lột xác trở nên quyến rũ bội phần. Thi sĩ họ Mạc đâu cần đưa thơ vào âm điệu du dương để làm phù thủy âm thanh hay làm nhà ảo thuật của tiết điệu. Thơ vẫn phì nhiêu cảm xúc thân thương cho độc giả yêu thơ.
rồi một ngày âm thầm ta trở lại
nhìn qua sông cây lá vẫn còn xanh
dòng nước cạn bầy cá ròng bơi lội
nghe rong rêu sương gió chợt vô tình
trên bến cũ trăng nghiêng vàng mệt mỏi
thuyền ai qua chở gió một khoang đầy
con sông nhỏ chừng long lanh giọt lệ
của một thời đau đớn những chia tay
xin đừng hiểu cho lần ta trở lại
tìm riêng tư yêu dấu bóng trời quê
ngày tháng vẫn trôi qua vòng nhật nguyệt
bao tang thươngcho mượn lối đi về
lời cầu nguyện xin chia cùng cố xứ
điệu ru em xao xuyến những ân tình
câu ân ái trên môi cha mắt mẹ
là cội nguồn dòng sử Việt ngàn năm
cho một lần cùng nhau ta trở lại
ấm tình sâu nghĩa nặng với quê hương
trong ánh mắt ngọt ngào đêm hội ngộ
bàn chân xưa tìm được dấu thiên đường.
(các trang 122, 123)
Theo thiển ý của bút giả khi tình yêu chui vào bài văn và hay câu thơ bằng ngôn từ diễm lệ, bằng ý tưởng bao la hoành tráng thì độc giả cảm thấy tâm tình của mình chưa được vỗ về. Thơ phải chân thành. Nhưng thơ văn rõ ràng quá, quen thuộc quá thì làm cho tinh thần sáng tạo của chúng ta bị thui chột đi. Nhà thơ Mạc Phương Đình của chúng ta ở bài Hẹn về thăm dùng ngôn từ đơn giản phản ảnh tâm tình rất trung thật. Nhưng ở bài Mùa đông xa anh dùng lời bóng bẩy nhưng đâu kém chân thành. Đây này:
hãy thức dậy, mang mùa đông xuống phố
chia cho người bớt chút lạnh đi em
sầu viễn xứ như từng bông tuyết trắng
nhuộm tóc nhau trong lặng lẽ im lìm
gió phương bắc từng cơn tê nỗi nhớ
đèn quê xưa hiu quạnh rọi qua tim
dòng nước mắt như hòa trong máu thịt
dấu thương đau trăn trở buốt từng đêm
nắng trốn biệt ngàn ngày không trở lại
chân trời xa một màu xám êm đềm
sợi tóc bạc muộn phiền trên gối nhỏ
bàn chân đau hạt cát chẳng thân quen
mấy chiếc lá vàng nghiêng bên cửa sổ
màu phố xưa sầu rụng chuỗi hoa đèn
đêm mộng mị chập chùng câu hẹn cũ
kẻ đi về lối xóm nhắc cùng tên
còng lưng gánh mùa đông chôn kỷ niệm
nhưng quê hương xa lắc dễ gì quên.
(các trang 52, 53)
Những bài nhớ thương bà mẹ vẫn là thơ với chủ đề quen thuộc, nhưng thi sĩ Mạc Phương Đình áp dụng ngôn ngữ canh tân mới làm tăng thêm nguồn cảm xúc cho người đọc. Trước đây, anh viết nhiều bài thơ tặng mẹ trong thi tập đầu tay Lời ru của mẹ, lời thơ thật dồi dào xúc động. Trong Ru người ru đời chỉ có đâu đó một vài bài gửi về mẹ, ý thơ đâu kém phần tha thiết. Xin xem bài Vô tư không chỉ nói về từ mẫu mà còn trải ý tình lên nghiêm phụ của tác giả. Xin cùng đọc:
đêm sóng sánh rớt buồn câu lục bát
từng nỗi sầu đóng mở khúc ca dao
lời ru mẹ còn ấm lòng thơm ngát
gội yêu thương qua giai điệu ngọt ngào
như bắt gặp trong hồi môn của mẹ
bóng roi mây một thưở của lời cha
dấu đạo đức còn hằn in tuổi trẻ
hướng đời lên cho suốt chặng đường xa
(trang 161)
Mạc Phương Đình không bao giờ chọn những đề tài hiểm hóc. Anh chọn những đề tài đơn giản và gần gũi và thân thương cho chúng ta. Nhưng câu thơ của anh rất đẹp, rất ngời sáng tinh thần sáng tạo. Đề tài về cha mẹ của anh không đòi hỏi một công phu về chữ nghĩa (tức là chữ nghĩa diêm dúa kiêu sa). Ngôn từ trong thơ anh chải chuốt rất tự nhiên. Chẳng hạn như bài Bụi thời gian:
câu ca dao từ ngày xưa mẹ hát
dấu bờ tre con bìm bịp kêu chiều
lạch nước chảy qua mấy bờ ruộng cạn
như mùa hè trông nồm thổi thổi hiu hiu
cay con mắt giấc trưa nồng chưa đã
chú dế mèn ngơ ngác giọng buồn thiu
có một sớm bên kia sông bỏ chợ
súng đạn về theo nước mắt khăn tang
câu hát mẹ cũng đầm đìa cổ tích
căn nhà quen trùm lên dấu điêu tàn
mảnh áo rách gói khoai chà lưu lạc
con đò già cũng mất lối sang ngang
cha gánh gạo rừng đêm nghe muỗi hát
lời ru xưa đau tuổi đá trên ngàn
bên bếp lửa còn nồi rau bát cháo
nỗi quê hương cay đắng lật từng trang
(các trang 164, 165)
Có độc giả lại nghĩ khác: Ngôn từ trong thơ được chăm sóc nên rất dồi dào thẩm mỹ, rất điễm trang hoa lệ. Nhưng tác giả chỉ nói về đạo đức của gia đinh, anh không đào sâu tình phụ tử lẫn tình mẫu tử. Nhưng qua bài Cúng mẹ, ngôn từ đơn giản hơn. Tình mẫu tử nhờ đó mà gây xúc động cho độc giả. Tình con đối với mẹ rất thiêng liêng, chữ nghĩa trong thơ phải chân thành đơn giản để tránh rổng sáo, để tránh chữ tuy nhiều nhưng nghĩa rất ít, hoặc chữ kêu lảnh lót mà nghĩa lại im câm. Xin cùng thưởng thức:
ngày mẹ mất, vẫn còn trong túi áo
mấy chục đồng con cho mẹ hôm xưa
món tiền nhỏ, từ công con làm chổi
hết cau trầu mà mẹ chẳng kịp mua
con biết mẹ phải nhịn trầu mấy bữa
sau khi ăn, nghe tiếng mẹ thở dài
chiếc ống ngoáy nằm trên bàn lặng lẽ
mẹ không tiền mà chẳng dám hỏi ai
đi tù về, gia đình càng khó nhọc
con xin làm chổi đót sống qua ngày
hàng đã nộp mà tiền công chưa nhận
gạo sẵn nhờ hàng xóm giúp cho vay
lát sắn sượng cõng hạt cơm nhẹ quá
không còn răng đành mấy hạt cơm thôi
bụng mẹ đói nhưng cau trầu ấm miệng
bảy mươi năm đậm nhạt cũng quen rồi
nơi quê người mỗi lần con cúng mẹ
trên mâm cơm luôn có đĩa cau trầu
nhìn vôi trắng con nhớ vầng tóc bạc
mất mẹ hiền đời dồn dập thương đau.
(các trang 13O, 131)
Bây giờ xin nói về nhân sinh quan trong thi tập Ru người ru đời. Nhân sinh quan chỉ nhắm vào ý tưởng của con người. Còn tư tưởng thì nhắm vào cái sâu xa của triết học và tôn giáo. Văn chương tư tưởng trong số nhà văn ở quốc nội và ở hải ngoại của chúng ta quá ít oi. Xin kể : Vũ Khắc Khoan trong cuốn tập truyện Thần tháp rùa và vở kịch Thành-cát-tư-hản, Nghiêm Xuân Hồng trong Trang tôn kinh huyền hoặc, Thân Thị Ngọc Quế trong thi tập Đường lên đỉnh biếc, Giọt nước cành sen, Như Chi trong thi tập Thơ Hiền (tên cô là Lê Thị Hiền). Trong hai tác phẩm tập truyện và vở kịch, Vũ Khắc Khoan nói về lẽ sống chết, về tham vọng của con người có quyền lực qua những suy niệm bi quan yếm thế. Qua Trang tôn kinh huyền hoặc, Nghiêm Xuân Hồng nói về sự thành lập cõi tam thiên đại thiên quốc độ. Còn Thân thị Ngọc Quế và Như Chi đem Phật pháp vào thi ca.
Còn thi tập nói Ru người ru đời có nhiều bài hiển lộ những nhân sinh quan như bài Trăn trở:
tóc nhuộm trắng nhưng hồn còn xanh ngát
tuổi xuân ơi ngày tháng trốn về đâu
nghĩa sông núi gởi bên trời lưu lạc
ai mơ chi khanh tướng với công hầu
vàng đôi mắt đợi chốn tình mòn mỏi
nhìn én về đan dệt những mùa xuân
như dòng chảy ập xuống đầy dấu hỏi
tưởng bọt bèo không đắm nổi gian truân
trên bước lỡ nửa đời cùng gió bão.
người về đâu quay quắt lối hẹn hò
con sóng lớn nhấn chìm bao mộng ảo
gót khua buồn qua những nẻo quanh co
như con sáo biếng lười không tiếng hót
mộng nghìn đêm trả hết thuở xuân thì
người có phải là muôn lời mật ngọt
dành riêng mình một ngõ dấu chân đi
vẫn còn đó những mắt chờ vô vọng-
nắng và mưa mang nặng dấu luân hồi
ngày đã lụn che khung trời lạnh cóng
chút hương nào đậm nhạt chốn xa xôi.
(các trang 34, 35)
Bài thơ nầy có ngôn ngữ úp mở… rất thơ, rất giàu sang ý tình. Chúng ta dù không hiểu thấu các điều tác giả nói. Nhưng chúng ta biết bài thơ đến mọi lớp người bằng một thế giới riêng, một tình cảm riêng để tuôn tràn cảm xúc. Chúng ta đều biết tác giả không hạnh phúc . Cuộc đời của anh không đáp ứng với nguyện vọng của anh. Mộng lớn mộng nhỏ của anh bị thực tế phũ phàng vùi lấp. Đây là một bài bi ca (poème saturnien) Trớ trêu thay khi mình không đối diện với chính mình để mình rõ con đường nào mình phải đi, để thấy viễn ảnh và tương lai mình ra sao, để mình tìm chút hy vọng. Mình thấy cô đơn lạc lỏng. Bài thơ Giấu niềm riêng có những đoạn cho chúng ta thấy nỗi niềm bi quan của thi sĩ:
trên sóng đời đôi tay chèo mỏi mệt
ta phù du theo tiếng gọi đăng trình
mỗi chặng đường ngỡ ngàng khi ngó lại
vết chân buồn rơi rụng kiếp nhân sinh
cùng bằng hữu một tấm lòng rực rỡ
đâu tiếc chi giọt máu ngọt phù sa
mơ tuổi trẻ cùng phơi lòng trinh bạch
vì non sông ru niệm khúc quê nhà.
(trang 158)
Tôi mang máng nhớ thi sĩ Khalil Gibran có khuyên các nhà thơ: Hãy dùng cây bút ánh sáng / dùng tấm lòng ánh sáng/ để viết bày thơ ánh sáng. Nhưng phần đông chúng ta thường nghĩ rằng các nhà thơ của chúng ta đều làm thơ buồn, thơ không buồn thì người sáng tác chưa phải là thi sĩ. Có phải đương sự quá vội vàng suy tư như thế chăng. Thi tập Ru người ru đời hầu như không có bài vui nào. Xin cùng đọc bài thơ Ta và sóng:
ngày tĩnh lặng bóng thời gian rụng xuống
người bỏ đi mây nước cũng vô tâm
nào khắc khoải lạnh lùng dẫu muộn
có còn chăng mùi hương cũ âm thầm
buông nỗi nhớ lạc loài trong gió
để bềnh bồng mất dấu lối mòn xưa
chút hương cũ dành cho người ở đó
kẻ bên trời hiu hắt ánh trăng thưa
vẫn tiếng gọi vọng về từ biển
sóng biển mênh mông con sóng về đâu
vẫn tiếng gọi rơi chìm vô vọng
biển cùng ta thinh lặng cúi đầu.
Sau hết, những bài thơ tình trong thi tập Ru người ru đời. Chưa chắc người yêu của thi sĩ là giai nhân tố nữ hay là kiều nga mỹ nhân. Chúng ta chỉ biết cô ta đã nhóm trong tim thi sĩ ngọn lửa tình sáng rực. Nhưng cô ta vì cớ nầy hay cớ khác chia biệt cùng chàng để chàng nhỏ lệ trong thơ. Xin cùng đọc bài thơ Mộng ảo:
chim vỗ cánh mang đầy bao nỗi nhớ
bóng mây xa theo gió gọi mây ngàn
em ở đó sao chừng xa vời vợi
những dòng thơ lay lắt bóng trăng tan
thuyền đợi sóng vỗ về âm điệu cũ
dấu chân xưa in lối ngõ hoa vàng
đêm trăn trở ru từng cơn mộng ảo
chút lạnh nào se sắt gió trường giang
tìm đáy cốc nỗi buồn tan giọt rượu
hồn bỗng trôi theo bóng nguyệt mơ màng.
Mùa có xuân, hạ, thu, đông. Nhưng mùa thu trong văn chương miền Bắc có nước trong trăng sáng, có hoa cúc thịnh phóng trong tiết giao mùa. Nhưng mùa thu bên Trung Hoa thuở xa xưa là mùa hành quyết các tội nhân. Và mùa thu gợi cho Mạc thi nhân một mối sầu chia biệt. Xin cùng đọc Lại chờ thu:
ta đứng giữa mùa thu chờ đợi
nắng trên cao lấp lánh theo dòng
gió reo trên lá nghe vời vợi
những khúc tình xưa rót thật trong
thu đi năm ngoái vàng hoa cúc
nửa gối sầu lên đưa tiển nhau
em khóc cho hồn ta gỗ mục
còn chi trao gửi đến em đâu.
ta nhìn ly rượu hồn thêm đắng
không uống mà say với ngẩn ngơ
em bước trong hồn ta chết lặng
đường xa trước mặt, nổi ơ thờ
thu đi năm ngoái dường xa lắc
ta đếm từng trăng chút võ vàng
trăng cũng bập bềnh soi vằng vặc
để ngờ chưa khuyết bóng thu sang
ta đứng chờ thu hay đợi em
ngày qua bỏ lại chút âm thầm
thu chưa vàng lá sầu như rụng
không gió may về vẫn lạnh căm.
(các trang 116, 117)
Các bạn độc giả đứng tuổi thích gợi lại mối tình sinh viên hay mối tình học sinh trong bài thơ, trong ca khúc, Mạc Phương Đình đâu có quên thời thơ mộng của các bạn đâu. Đây nầy bài thơ Hình bóng xưa với các trang 118, 119.
em bước nhỏ ngọt ngào trăng mười sáu
dấu xuân xanh trong nhịp gót sen hồng
nơi bờ giậu, hoa cuối mùa nghiêng xuống
con sáo ngừng giọng hót ở bên sông
gió âu yếm dịu vờn trên mái tóc
rung làn mây óng ả tuổi nhung tơ
đôi mắt biếc mềm như hơi thở nhẹ
và bâng khuâng như một nỗi mong chờ
ôm chiếc cặp, tương lai em dấu kín
ngẩng trông lên hoa phượng nở trên đầu
nắng mùa hè xoa chút hồng đôi má
khoé môi chờ dịu ngọt với ngàn câu
ta bắt gặp ngày xưa qua vóc dáng
em thơ ngây nhịp guốc trước sân trường
bao kỷ niệm của một thời áo trắng
vẫn đậm đà bao nỗi nhớ, niềm thương
xin được giữ chút hồn nhiên thơ dại
để mang theo trên những nẽo đường đời
hoa vẫn nở dẫu tháng ngày khó nhọc
lòng vẫn vui cùng sương gió em ơi.
(các trang 118, 119)
Thi tập Ru người ru đời của Mạc Phương Đình với đề tài gần gũi với bạn đọc. Chúng ta gặp những đoạn đời gian truân khổ ải của tác giả như: lòng yêu kính mẹ hiền, xa quê hương, lưu lạc xứ người, tình yêu lứa đôi tha thiết nhưng không hạnh phúc về sau.
Ý thơ của anh bình thường nhưng không tầm thường. Đó là sự tha thiết chân thành, không ngụy trang tâm trạng cầu kỳ bằng những hoa hòe hoa sói. Điều đáng nói là anh tìm một ngôn ngữ rất thơ. Đa số nhà thơ làm những bài thơ với tình ý trống trải; chữ nghĩa cũ mèm, thiếu sự canh tân, thiếu sự sáng tạo. Hồi tiền chiến Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu và Huy Cận đã tìm ngôn ngữ thơ riêng biệt cho mình. Ngôn ngữ đó không quá hũ nút như thơ của nhóm Xuân Thu Nhã Tập, như thơ của Bùi Giáng, như thơ của Phạm Công Thiện. Thơ của Mạc Phương Đình gồm những ngôn từ huê dạng, tuy có kiến trúc hơi lạ, nhưng vẫn cho độc giả hiểu thấu để cho tâm tình giữa anh và độc giả cảm thông nhau, để cho đôi bên được thăng hoa vào một tình ý đậm đà.
Tiểu sử Mạc Phương Đình:
“... Tuổi Thìn sinh năm 1940, trước năm 75 một thời làm công chức ngành Thông Tin, năm 68 động viên vào lính, 75 đi tù cải tạo, năm 93 đi định cư ở Mỹ. Tập tành làm thơ, viết truyện ngắn từ hồi còn đi học ở QH Huế (57-60) có bài đăng trên một số nhật báo và tạp chí tại Saigon như Tiếng Chuông, Ngôn Luận, Bách Khoa, Thời Nay, GDPT, Gió Mới..(59 - 65).,
Ngưng viết cho đến 95 sau khi đã ổn định cuộc sống ở Mỹ với nghề công nhân trong các hãng điện tử. Cộng tác viên của một số báo trên mạng như Giao Mùa, Hồn Quê, Đất Quê...
Hiện cư ngụ tại San Jose, Ca, USA. (Luân Hoán)
- Vũ Tiến Lập với Tạp Ghi Thơ II Hồ Trường An Nhận định
- Nhà văn Đỗ Phương Khanh Hồ Trường An Hồi ức
- Phương Triều với những bài thơ hệ lụy đè nặng trên vai Hồ Trường An Nhận định
- Giới Tính Trong Văn Chương Nghệ Thuật Hồ Trường An Tùy bút
- Trương Anh Thụy với những bài thơ thấm nhuần tư tưởng Đông Phương Hồ Trường An Nhận định
- Mạc Phương Đình: Thi Tập "Ru Người Ru Đời" Hồ Trường An Nhận định
- Vũ Khắc Khoan Với Thần Tháp Rùa Hồ Trường An Khảo luận
- Thụy Khuê với Nhân Văn Giai Phẩm Hồ Trường An Khảo luận
- Nguyễn Thị Hoàng với Tan Trong Sương Mù Hồ Trường An Tạp luận
- Nguyễn Thị Thụy Vũ với Lòng Trần Hồ Trường An Tạp luận
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |