|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Giang Hữu Tuyên trước năm 1975 là một sĩ quan hải quân, và khi ra hải ngoại ông hoạt động về báo chí Việt ngữ ở vùng thủ đô Hoa Kỳ, có một số thơ đăng trên các báo Việt ở Washington DC. Vì vậy khá nhiều người không được biết tên nhà thơ Giang Hữu Tuyên. Đến khi ông mất khoảng gần cuối năm 2004, báo Việt ngữ ở quận Cam California loan tin cùng phổ biến bài thơ rất cảm động của ông, bài "Trời Mưa Ði Phát Báo" nói về nghiệp nghề đi phát báo Việt Ngữ của một cựu sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, làm nhiều người muốn tìm đọc thêm thơ của Giang hữu Tuyên. Bài thơ ấy nếu đã từng đọc trước đây, người viết bài này sẽ không khỏi liệt kê nó thuộc hàng hay nhất của loại thơ "Hội Nhập Buồn" khi mới định cư ở xứ người, sánh vai cùng "Thơ Xuân Ðất Khách" của Thanh Nam hoặc "Mai Mốt Anh Về" của Cao Tần.
Tìm đọc thêm thơ của Gianh Hữu Tuyên, ta lại bắt gặp những vần thơ buồn phản ánh một đời sống chưa thích nghi vào hoàn cảnh mới, làm những việc không đúng sở thích. Có người sẽ hỏi ngay, sở thích đó có phải là ngành đi biển? Theo thiển nghĩ thì không phải như vậy, vì trong thơ Giang Hữu Tuyên có rất ít dấu vết yêu đại dương như trong thơ một số thi sĩ thuộc binh chủng Hải Quân (xin sẽ nhắc đến vài người ở đoạn sau). Ðọc thêm đoạn thơ hội nhập buồn nơi xứ người sau đây, ta xúc động nỗi buồn của ông lúc hoàng hôn đời người, song hành với tâm tình mãi hướng về quê hương Việt Nam:
Từ nay chín cửa mưa mù lối
Sóng nước bồng bềnh nhánh củi trôi
… Áo cơm lần lữa qua ngày tháng
Mộng ước lui dần xuống kẽ tay
… Mai này trong chuyến tàu thiên cổ
Nếu có người thương tiếc tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa.
(Trích bài: Đất Gọi Người Ði)
Người viết bài này tìm đọc được những bài thơ hoài hương miền quê sông nước châu thổ sông Cửu Long của Giang Hữu Tuyên trên Internet: có bài hằn dấu vết sáng tác tại Hoa Kỳ bằng các từ ngữ chỉ địa danh, nhưng có bài mang dấu vết thời gian ông phục vụ trong ngành hải quân, hoặc mang kỷ niệm thuở còn đi học. Ðó là do hồi-tưởng, hay đã sáng tác khi ở trong nước trước 1975? Các bài thơ không ghi thời điểm sáng tác, cũng không lưu dấu từ ngữ về không gian lúc sáng tác đang ở nơi nào, chỉ dàn trải tình cảm quá khứ mà thôi. Vậy những bài tình quê hương có thể được sáng tác từ khi ở nước ngoài, hoặc có thể từ khi đang trên con tàu hải quân, hoặc từ khi mới từ giã đời học trò để bước vào quân ngũ. Khác thời điểm, nhưng chung nỗi niềm nhớ quê, và quê đó đậm tình sông nước Miền Nam. Như bốn bài thơ nhớ quê sông nước dưới đây, một bài làm ta biết rõ sáng tác từ tiểu bang Virginia Hoa Kỳ sau 1975, và sáng tác trong thời điểm Việt Nam-Hoa Kỳ chưa thiết lập bang giao nên ra đi coi như vĩnh biệt Tổ Quốc:
… Hồn bình nguyên rộng trên tay
Căng đầy nỗi nhớ sông đầy phù sa
Ơi miền Nam, ơi quê nhà
Dưới ao sen nở mẹ già vo cơm
… Mưa phù gió phất qua hiên
Em gom củi đước đốt lên nỗi niềm
Chị ngồi vá chút buồn riêng
Anh đi như thể là thiên thu rồi
(Trích bài: Mưa Arlington, Nhớ Mưa Quê Nhà)
Một bài thơ khác làm ta phân vân phải chăng tác giả viết từ khi rời ghế nhà trường, mãi sau này mới đãng trên báo Việt Ngữ ở Washington DC, trong đó chan chứa niềm nhớ quê ruộng vườn song hành với nhớ thời mới từ giã hoa-niên, từ giã người yêu sông nước Cửu Long để ra Nha Trang học ở Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Trong bài thơ có hình dáng bóng núi và tình hướng về Miền Tây Nam Bộ, nên ta có thể phỏng đoán nó được gợi hứng do xúc cảm từ Nha Trang. Nhưng bài thơ sáng tác nơi đâu, có thể tại Hoa Kỳ như một hồi ức; mà cũng có thể sáng tác từ lâu tại Việt Nam, đến khi ra nước ngoài mới cho xuất hiện:
Anh đi châu thổ mưa buồn vương vãi
Mấy hàng dừa xanh lả ngọn mong chờ
Em tiễn đưa anh bằng đôi mắt biếc
Của ngày mực tím giấy ngây thơ
… Từ hiên nhỏ nhìn ra con sông rộng
Dáng núi chiều hùng vĩ chắn chân mây
Thuyền ai thấp thoáng đi về phía ấy
Mà vang rền giọng hát cuối trời Tây
(Trích bài: Bông Bưởi Chiều Xưa)
Và hai bài thơ khác cũng làm ta phân vân tương tự về không gian và thời gian sáng tác, không rõ có phải ông đã sáng tác lúc tàu Hải Quân đang chạy sát bờ duyên hải Cà Mau, và rồi cho bỏ neo đậu trên dòng Sông Trẹm; hoặc chỉ sáng tác như một hồi tưởng lúc đang sống tại Mỹ. Ta có thể cảm thông xúc cảm của Giang Hữu Tuyên: lúc tàu đang dọc dài duyên hải, nhà thơ đã đánh hơi được hương mùa Xuân bông cúc vàng của ngày Tết nơi đất liền. Trong thơ ông không có tiếng trùng dương réo gọi viễn du mà lại có tiếng vọng cổ của điệu buồn lặng lẽ phù sa trên dòng sông châu thổ vừa "thức giấc yên ba". Và khi đậu tàu trên dòng sông Trẹm thường ửng đỏ do lá mục của rừng tràm U Minh, vùng lửa đạn thời chiến tranh Việt Nam trước 1975, ông đã từng xúc cảm với ý tưởng chỉ hai bờ sông Trẹm cũng đã là hai chiến tuyến, hai chiến tuyến thu nhỏ của hai chiến tuyến lớn Nam Bắc thời chiến tranh Việt Nam trước 1975. Xúc cảm để sáng tác lúc tàu đậu trên sông, hay xúc cảm khi hồi tưởng tại Hoa kỳ, ta chẳng biết vì không có ghi thời điểm dưới bài thơ:
Mùa Xuân về từ hơi biển lạ
Bông cúc vàng mặn gió xa xăm
… Cùng với đàn chim đang chao liệng
Con sông dài thức giấc yên ba
Em nghe không mơ hồ trong gió
Có điệu buồn của nước phù sa
(Trích bài: Điệu Buồn Phù Sa)
Chinh chiến người đi như lá mục
Giòng sông kia đỏ nước thêm hoài
Máu ai chảy từ bao năm trước
Mà nối không liền được đất đai
(Trọn bài: Về Giòng Sông Trẹm)
Quả thật nhà thơ Giang Hữu Tuyên đậm tình với sông nước miệt vườn của đồng bằng sông Cửu Long, vì ngay từ thời thanh niên, cũng có thể ngay từ niên thiếu, ông đã chung đụng với bùn lầy vườn quê quanh nhà như vén đất hay giềng bờ ao khi nước lụt; quen với hương mắm ăn kèm rau dừa, loại rau mọc dồi dào quanh bờ ruộng; quen thấy những bầy ròng ròng đỏ ửng (bầy cá con giăng một hàng khá dài theo cá lóc mẹ thường gặp trong mương rạch). Những ai đã từng ở vùng quê Nam bộ mới cảm nhận được hương mắm và cảnh sắc thân ái miệt vườn như Giang Hữu Tuyên:
Rau dừa xanh ngọn dưới mương
Bếp chiều nồi mắm tỏa hương ngạt ngào
Con giờ lưu lạc phương nào
Ðêm đêm chiếc bóng mẹ rầu con ơi
Rạch kia đã cạn hết rồi
Không con, ai vét đất bồi ấy lên?
Nhớ mùa nước lớn tràn hiên
Một tay con đắp con giềng bờ ao
Miệng cười con nói không sao
Cá không vượt nổi đăng cao như vầy
Ao giờ lau sậy mọc đầy
Ròng ròng đỏ ửng một bầy, con ơi!
(Trọn bài thơ: Không Con, Ai Vét Đất Bồi Ấy Lên)
Giang Hữu Tuyên viết về lời mẹ nhắc tới bầy cá ròng-ròng để gợi kỷ-niệm mà nhớ mẹ, mẹ ông biết sở thích thuở bé của những đứa con nay đã xa cách. Những lời thơ như trên chỉ mang tính tường thuật kỷ niệm đồng quê, không có câu thơ nào bóng bẩy thuộc tu-từ-pháp; nhưng thật đậm đà tình yêu sông nước, mương rạch, vườn quê. Sở dĩ người viết muốn trích nguyên bài thơ này ra đây để thấy khuynh hướng tâm hồn Giang Hữu Tuyên, một nhà thơ Hải Quân nhưng rất ít đề cập đến cảnh quang trùng dương biển cả. So sánh với thi ca của một vài nhà thơ cũng thuộc Hải Quân trước đây như Hữu Phương, Tôn thất Phú Sĩ, Phạm Hồng Ân, ta sẽ thấy nhà thơ Giang Hữu Tuyên có rất ít câu liên hệ đến trùng dương biển cả. Còn ba nhà thơ kể trên cũng là sĩ quan Hải Quân, họ đều nói nhiều về biển, có người còn gắn bó tình yêu biển ngang với tình yêu đầu đời. Khi giải thể quân ngũ sau năm 1975, lòng yêu biển vẫn còn, dù chỉ còn trong tiếc nuối:
… Cái thú về khơi xin giã biệt
Gió bão ngày xưa quá rã rời
Cũng chẳng còn gì tôi tha thiết
Im lặng mà xem chuyện đổi dời
(Hữu Phương, trích trong bài: Ước Vọng Giã Từ)
… Vừa biết yêu, anh lỡ lầm yêu biển
Tháng năm dài theo con tàu lênh đênh
Bước phiêu du nhiều khi nghe hiu quạnh
Neo tuổi vàng giữa sóng nước mông mênh
(Tôn Thất Phú Sĩ, trích trong bài: Xin Đừng Trách)
… Con tàu đó, xác thân vùi trong cát
Nửa thân tàu nằm yên ngủ thâm sâu
Nửa thân kia vương víu vọng trời cao
Con chim biển khóc tình sao Bắc Đẩu
(Tôn Thất Phú Sĩ, trích trong bài: Ngơ Ngác Giữa Âm Xa)
… Từ sông ra biển xuôi theo nước
Ðêm ghé Hòn Tre hẹn chuyến đi
… Mai nương sóng bạc qua Hòn Nghệ
Lơi lả trăng nghiêng một góc trời
… Mai hết kiếp người xin hóa núi
Ngàn năm hùng vĩ mũi Kwala
(Phạm Hồng Ân, trích trong bài: Từ Sông Ra Biển)
Ta đã đọc bài thơ "Về Giòng Sông Trẹm" của Giang Hữu Tuyên đã nói ở trên, và ta đã biết ông đau lòng vì đất nước nằm trong hai chiến tuyến, chiến tuyến hai bờ sông Trẹm ở Cà Mau là bối cảnh thu nhỏ của chiến tuyến hai bờ sông Bến Hải chia đôi nước Việt Nam. Ðó là chiến tuyến địa lý phân chia, nhưng sự phân chia lòng người còn phức tạp hơn trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thành đến ba bốn chia lìa, chia lìa do khuynh hướng chính trị, hoặc chia lìa do hoàn cảnh. Điển hình sự phân ly hiện hữu ngay ở trong nội bộ một gia đình: Hồi còn thơ ấu, mẹ nấu nồi canh mồng tơi tím thì bốn người con cùng ăn ngon bên mẹ bên cha. Khi lớn lên, cả bốn người con ở vào tuổi ràng buộc vào cuộc chiến; người theo bên này người theo bên kia; người thuộc thành phần phản chiến không ở phe nào; người chị gái thì mất chồng vì viên đạn tai bay vạ gió tình cờ. Giữa thời chiến, nồi canh mồng tơi mẹ nấu vẫn tím như ngày xưa mà không còn người con nào ở trong gia đình nữa:
Trái mồng tơi ngày xưa mầu tím
Canh mồng tơi ngày xưa mẹ nấu cả nhà ăn
Con lớn lên con làm lính
… Trái mồng tơi ngày xưa mầu tím
Canh mồng tơi ngày xưa mẹ nấu cả nhà ăn
Anh lớn lên, anh làm cách mạng
… Chị lớn lên, chị thành sương phụ
Ôm con, khóc chồng bởi viên đạn tình cờ không thuộc cả đôi bên
… Em lớn lên, em làm phản chiến
Chống Mỹ, chống Tàu, chống cả Liên Xô
… Trái mồng tơi bây giờ mầu vẫn tím
Canh mồng tơi bây giờ mẹ nấu chẳng ai ăn
Mỗi chiều lần mò ra hàng mồng tơi cũ
Mắt mẹ buồn vì thương nhớ những đứa con xưa.
(Trích bài: Mầu Tím Mồng Tơi)
Ta chợt nhớ tới phim truyện "The Fighting Sullivans" nói về một gia đình có năm người con trai ở Tiểu bang Iowa Hoa Kỳ. Người cha làm nghề lái tàu hỏa xa. Mỗi khi xe lửa đi qua tháp cao cung cấp nước cho đầu máy (kiểu xe lửa chạy bằng hơi nước thuở xưa) thì cả năm anh em đều có mặt trên tháp nước ấy để chào người cha đi qua. Họ rất nghịch ngợm lúc thiếu niên. Lớn lên, đáp lời kêu gọi nhập ngũ chống Nhật, cả năm tự nguyện lên đường tòng quân trong Đệ Nhị Thế Chiến, kể luôn người em út lập gia đình trước các anh lúc ấy đang độc thân. Cả năm anh em đều thuộc Hải Quân và muốn cùng phục vụ trên một tàu chiến. Tàu chiến của họ lâm trận ở vùng biển quanh quần đảo Guadalcanal ở Thái Bình Dương vào tháng 11 năm 1942, bị chìm vì thủy lôi, và họ đều mất tích theo tàu. Đây là chuyện thật được viết thành phim. Hiện ở thành phố Waterloo Tiểu bang Iowa có nhà tưởng niệm năm anh em gia đình Sullivans. Phim đã có chiếu ở Việt Nam khoảng đầu thập niên 1950 với nhan đề bằng tiếng Pháp "J’avais cinq fils" (Tôi Có Nãm Người Con Trai). Chính phim này (sản xuất năm 1944) là một trong vài nguồn cảm hứng cho phim truyện cũng chiến tranh thời Đệ Nhị Thế Chiến nhưng ở mặt trận chống Ðức Quốc Xã bên trời Âu, phim "Saving Private Ryan" (Cứu Lấy Người Con Trai Cuối Cùng Của Giòng Họ Ryan – sản xuất năm 1998). Nguồn cảm hứng của nhà làm phim ở chỗ muốn nhắc nhở nên lưu ý trường hợp nhiều anh em trong một gia-đình bị động viên tất cả vào cuộc chiến, rồi họ có thể tử trận hết vào cuộc chiến; vậy phải làm sao tranh-thủ cho ít nhất một người trong họ còn tồn tại (theo như cốt truyện trong phim). Bài thơ "Màu Tím Mồng Tơi" của Giang Hữu Tuyên và phim truyện "Tôi Có Năm Người Con Trai", những tương tự thật buồn làm ta ghi nhớ: đoạn cuối của bài thơ với hình bóng người mẹ một mình ngồi bên nồi canh mồng tơi; còn trong phim "The Fighting Sullivans" thì người cha lái tàu qua bồn tháp nước và mường tượng có bóng ảo của năm người con trong mây mờ.
(Tháng 2 năm 2012)
- Nghĩ Về Di-Cảo Mấy Ngàn Trang Của Một Nhà Thơ Yểu Mệnh Trần Văn Nam Nhận định
- Tình Quê Tường Thuật Và Tình Quê Thăng Hoa Trong Thi Ca (Qua Thơ Đạm Thạch) Trần Văn Nam Nhận định
- Giang Hữu Tuyên, Nhà Thơ Hải Quân Nhưng Tâm Hồn Hướng Về Châu Thổ Trần Văn Nam Nhận định
- Có hay không sự chuyển đổi tình cảm trong thơ phổ nhạc Trần Văn Nam Nhận định
- Trường ca khi ở trên tầng bình lưu Trần Văn Nam Thơ
- Hà Nguyên Du đi giữa Duy Mỹ của Thơ Cũ và rất Hiện Đại của Thơ Tân Hình Thức Trần Văn Nam Nhận định
- Với nhà văn Mặc Đỗ, ta biết thêm vài điều qua cuốn sách mới nhất của ông Trần Văn Nam Nhận định
- Nhà Văn Lữ Quỳnh Viết Truyện Phản Chiến Ở Vị Trí Và Bối Cảnh Nào? Trần Văn Nam Nhận định
- Dẫn Lược Từng Chương Tiểu Thuyết Danh Tiếng của Thomas Hardy Trần Văn Nam Giới thiệu
- Chất Thơ Do Cảm Nhận Vài Kiến Thức Về Tư Tưởng Của Kant Và Hegel Trần Văn Nam Nhận định
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Trang Thơ (Phù Sa Lộc)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |