|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Duyên, Đinh Cường vẽ
DUYÊN
nỗi lá vàng cuối thu
Duyên không chỉ làm thơ. duyên vẽ. duyên chụp hình. duyên làm những bookmark thiệt dễ thương để gởi bạn bè, nhắc nhớ mỗi khi lật từng trang sách, vì ngoài kia…
bên khung cửa
lặng nhìn chiếc lá vàng. rơi
một mình…
The Last Leaf
O’Henry,
Cho nên đọc thơ duyên cứ nghe “Chân đi nằng nặng hoang mang… Ta nghe tịch lặng rơi nhanh. Dưới khe im lìm” (TCS)
chợt. hiểu ra rằng
mầu đỏ, vàng kia tự bao giờ… đã
ngấm. ngập
trái tim ta.
Phải, hình như những chiếc lá vàng kia vẫn luôn xào xạc, vẫn luôn thổn thức dưới trăng mờ của con nai vàng ngơ ngác tự thuở nào kia.
và khi trăng mờ, trên núi xa…
có lá vàng. lìa cành vội vã…
có mùa Thu, lành lạnh. gió thu, sang
Cô bé đi vớt mặt trời của Nguyễn Xuân Thiệp không về nữa… nhưng Zhivago thì vẫn về lại mái nhà xưa
Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng
tản cư về. về lại, mái nhà xưa
nơi. thi sĩ kể thơ. tình mê đắm
vẫn lạc loài, hình bóng Lara…
Ơi Lara. Rồi Lara hỏi Zhivago:
lá đỏ. lá vàng… đẹp ngỡ ngàng
mỗi độ sang Thu
lá vàng ơi. dặm đường xa. có mỏi
Zhivago còn biết trả lời sao?
Tôi một lần kia đi giữa Boston với cả một mùa thu, trọn một mùa thu. Nhớ Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi.
Bỗng nhớ Em không nghe mùa thu của Lưu Trọng Lư. Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ.
Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân tôi từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác như chú nai vàng “xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về” (Huy Cận) đó vậy.
Lạ, ở Mỹ người ta không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, mà người ta dễ “fall in love” có phải? (Nghe tiếng thu giữa Boston, ĐHN, 1993).
ngày cuối Thu buồn tênh…
vầng trăng chưa tỏ
bóng những chiếc lá
thoi thóp trong đêm
sẽ vùi chôn theo…
mùa Thu chết! *
Đọc thơ duyên không chỉ thấy nỗi buồn dằng dặc bởi thu phai mà còn thấy lòng mình như rộng mở, như những chiếc lá thu ngập thềm nhà, đẫm ướt mưa đêm mà còn biết chất chồng lên nhau cố giữ hơi ấm cho nhau…
trở về. sân nhà ngập lá
phủ kín lối đi… cây ginkgo vườn sau trơ cành. gầy guộc
sót lại. vài chiếc lá trơ vơ
thềm lá vàng
chất chồng lên nhau, chen mầu nâu, đỏ
đẫm ướt dưới mưa đêm
cố giữ hơi ấm cho nhau…
ngày tàn thu
Tôi chắc, một hôm thu kia, thế nào một chiếc lá vàng sẽ lắt lay trong gió nhẹ, mênh mang và vĩnh cửu, chiếc lá vàng được vẽ bởi duyên chớ không phải bởi O’ Henry, phải không duyên?
LÊ CHIỀU GIANG
trên sông khói sóng… (*)
Thơ Lê Chiều Giang không phải thơ. Nó là tiếng thét, là tiếng thở dài não nuột. Đọc Lê Chiều Giang thấy một người thơ, sống như thơ, thở như thơ, sáng trưa chiều tối, từ trong tranh bước ra, ngồi đó, ngó quanh, không thấy ai, lại bước vào trong tranh.
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi.
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya…
Lê Chiều Giang vẫn cứ lẽo đẽo tìm theo những rêu phong của ngày tháng cũ, nhiều lúc muốn xổ lồng bay xa mà vẫn ngập ngừng e sợ…
Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa? Quăng lên trời.
Ta.
Bước chân phiêu bạt
Tay không,
bày cuộc chơi.
Rồi hét lên tôi cứ lẳng lơ, tôi rất lẳng lơ viết những chữ mông lung, vật vờ như gió… sáng trưa chiều tối
Vẫn có một bờ vực không thể vượt qua, cho dù cứ lẳng lơ, rất lẳng lơ như thế! Để rồi
Đứng mãi trong tranh
Đóng vai:
Góa phụ
Sáng nay ta
Ra với mặt trời
Như kẻ xa xôi về lại trái đất…
nhìn quanh quất, vội vã bước trở lại trong tranh để:
… Diễn tiếp
Hỡi thế gian
Ta.
Bỏ cuộc chơi.
(Đầu hàng).
Trong tranh, Lê Chiều Giang có lúc như ngựa chứng, tóc bờm tung bay phi nước đại, cổ vươn cao ngoằng hí vang, dưới bóng trăng huyền hoặc lẫn bóng tối u mê giữa ngàn lá biếc. Sự cách điệu không hài hòa làm cho gương mặt có sắc sáng như trăng, lại thêm chút bóng tối của u mê. “Mắt tôi xếch và sắc như kiếm dao, bướng bỉnh đầy ngạo mạn, điểm thêm với miệng cười khinh bạc”.
“Chút khinh bạc, không biết bao lần đã nương bên tôi, đứng thẳng cùng tôi giữa đất trời, bên một dòng đời vô cùng nghiệt ngã…” (Lê Chiều Giang).
Giờ thì tôi hiểu có một hôm nào, Lê Chiều Giang đã gởi tặng Đỗ Nghê bài thơ Thiền giả: Ta đảo điên. Ta bất chấp. Ta bới tung…Ta quăng kiếm. Ta bẻ gươm. Ta nằm im. Ta giả chết… Toàn là hư chiêu hết đó thôi nhe! Đừng vội tưởng thiệt.
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay trên cao mà nhớ
Bước chân đi…
Sấp ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh tâm
Ta. Thiền định
Thì ra, đã là Sa Di Ni… từ lúc nào không biết. Cứ tưởng ngổ ngáo, ngang tàng, chọc trời khuấy nước… ai ngờ vẫn đắm chìm trong một cõi vời vợi, xa xăm…
Thiền Giả
Như đệ tử Kim Dung. Múa
trên đầu kiếm sắc
Ta đảo điên.
Ta bất chấp. Ta
Bới tung… Chẳng hiểu ra
đời.
Đã rất bao dung
Rất nương nhẹ
Để ta còn sống sót
Khi thất bại
Ta biết vờ đợi chết
Giả nằm im. Nghe
trái đất ngả nghiêng
Quá thấm đòn
Ta quăng kiếm
Ta bẻ gươm
Cũng biết thân. Ta ngồi im
Góc tối
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay trên cao mà nhớ
Bước chân đi…
Sấp ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh tâm
Ta. Thiền định
Cứ tưởng ngang tàng bướng bỉnh, “giang hồ mê chơi quên quê hương”, ai dè mới nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà, đã thút thít. Phải chi có một ông Bụt hiện ra hỏi: Sao con khóc?
Ta như đêm mịt mù
Giữa trùng trùng duyên khởi.
Quanh một vòng trái đất
Thèm trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê. Khóc. Nhớ nhà.
Thì ra là một nỗi oan. Không ai thấu hiểu.
Buồn ngang xương. Để
Thất thoát niềm vui
Tìm nghĩa lý trong điều
Không ai hiểu. (Vỡ nợ)
Có những nỗi oan
Tính viết lời chống đỡ
Mà mực khô, mà
Ý cạn. Tay run. (Tịnh khẩu)
Mổ trái tim xem:
Không gì trong đó
Mở đôi bàn tay:
Những thứ chẳng còn. (Lâm chung)
Đọc Lê Chiều Giang mà thương hơn cho một nhan sắc, một tính cách, một người sống với cõi đầy thơ… Để có những buổi “chiều buông trên dòng sông cuốn mau…”
Để rồi, nhận ra cõi vô lượng tâm:
“Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu…”
(Chiều về trên sông, Phạm Duy)
(*) trên sông khói sóng cho buồn lòng ai…(Tản Đà, dịch Hoàng Hạc Lâu).
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
thơ rắc bùa hương
Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về nước mắt
Trong lòng đêm ma mị
Khi viết xong bài thơ
Tôi thường hay xóa
Dường như tôi sợ bóng tôi
Giãy chết giữa những con chữ đói
Khi chấm hết bài thơ
Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời
Là bởi, bài thơ tưởng “hoàn tất” kia vẫn giữ mong manh những con chữ đói, giữ những từ đợi chờ, nên thi sĩ chẳng bao giờ hoàn tất nổi một bài thơ.
Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay
Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Là lúc đóa hoa đang nở.
Đang tỏa hương
Tôi có gì đâu phải vội
Cho nên “Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự…”
Hãy nghe thi sĩ nói những lời tình tự bằng lời ma mị, bằng thứ bùa mê, thuốc lú với những con chữ đói như thế nào
Tình Yêu
Trong nét vẽ dịu dàng của vòng ôm
Tôi chiếc lá cong
Âm thanh mềm một vũ khúc
Quyến rũ mầu đêm phủ
Tôi bờ đất ấm
Nghe từng hạt cát hòa âm
Âm thanh đi tới
Âm thanh của hòa tan…
Nhưng tình yêu không chỉ là đôi lứa, là vòng ôm là vũ khúc là hoà âm, mà tình yêu còn là đồng lúa chín vàng, là con tầu chở chuyên hội ngộ, là tiếng cửa reo sum vầy, là bếp ấm báo tin no đủ… Là nỗi ước mơ một ngày nào đó trong cõi chiêm bao
… Tôi sẽ thắp ánh sáng của sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn về khung trời đang mở nắng. Tôi sẽ treo trước cửa sổ phòng người tiếng hót một loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm chở che một điều đang bắt đầu trong khép lại một ngày ơn phước, nếu có tìm tôi…
Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…
Cơn bão rớt sẽ đến rồi sẽ qua. Và, chỉ cần có thế: “me tôi ngồi may áo, bên cây đèn dầu hao, cha tôi ngồi xem báo, tôi nghe tiếng còi tàu… “ (Phạm Duy).
Phải rồi, chỉ có ở đó, người ta mới có thể … “có tiếng chim trao lòng tin cậy; có bờ vai nương tựa sớm hôm; có những ánh mắt sao trời thơ trẻ”; và đôi cánh bay lên những ước mơ đằm thắm ngọt ngào của người thi sĩ, luôn nhắc nhở mình “đừng như bóng mây tan”.
Phải rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng reo vui Tat-bà-ha của Tâm kinh Bát nhã khi thấy biết “ngũ uẩn giai không/ độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã (Prajnã) là cái nhận thức có trước nhận thức, là cái trí tuệ có trước trí tuệ, không đếm đo, toan tính, nó vậy là nó vậy. Và chỉ ở đó, người ta mới thực sự hồn nhiên, thực sự reo vui: Tát-bà-ha!
Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy.
Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.
Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu. Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã. (Khoảnh khắc giấc mơ)
Cảm xúc với tranh Những Con Chim Ngược Gió của Họa Sĩ Đinh Cường, Khánh Minh viết, những bùa hương: Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Bảng pha mầu lấm lem ngày tháng bụi
Tiếng cọ ngày xưa thở ngoài khung tranh
Trời đóng lại. Một đường đêm thăm thẳm
Ai đi qua. Vệt mầu bạc thếch
Sông thời gian đặc quánh ảnh hình
Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Và gió, một mùi hương nồng nặc bùa mê trên sợi tóc vai người
Bay đi. Bay đi.
Bay qua dải thiên hà buồn bã kia. Mà về.
Trên vai người sợi tóc thơm hương tinh tú.
Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…
Đừng quên, chính những bùi nhùi năm tháng kia, không mất đi đâu, chỉ ủ một mùi hương chờ đợi ngọn gió từ cõi xa kia bùng thổi. Cho nên người thơ viết: Nên tôi quý những điều tôi đã nhận/ Nên tôi tận lòng với những điều đang ở.
Còn có cách nào hơn là “mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng” – Anapanasati- ở đó, hiện tại là sát-na mênh mông không ngằn mé. Và chỉ ở đó:
Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến…
Và một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương:
“Yêu thương nhé” “nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”, “yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…” “yêu thương ơi khoảnh khắc xum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay”.
Rồi tự dặn với lòng: “yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe… “Cho dẫu chiều rồi phai nắng…” (Yêu thương ơi)
Nếu có tìm tôi. Xin trông chờ mảnh sáng sao băng. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự… Nếu có tìm tôi. Xin theo dấu sáng đom đóm quyện hương bờ dậu quê nhà. (…). Cho tôi đôi cánh hoa bay về miền đồng lúa chín vàng. Ngôi làng không bận lòng gì hơn là sống bình yên. Có con tầu đi về chở chuyên hội ngộ. Mỗi tiếng cửa mở ra là một tiếng reo sum vầy. Mỗi bếp lửa là mỗi báo tin mùa màng no đủ. Nếu có tìm tôi…Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương Đông ấm một mặt trời… (Khoảnh khắc giấc mơ).
Hoang mang thế nhưng rồi, như một nhà thơ từng viết: Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy! Khánh Minh thì “Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi. Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội. Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm xúc phục sinh.
Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…” (Trong cơn bệnh).
Phải, “Còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm.
“Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” thôi mà! Phải không?
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 30.10.2024)
Sách có bán trên BARNES & NOBLE
224 trang, bìa mềm, 5.5” x 8.5”, giá bán: US$20.00
Xin bấm vào đường dẫn sau:
Tho duyen le chieu giang nguyen thi khanh minh by Nguyen Thi Khanh Minh, Paperback | Barnes & Noble®
- Lời Bạt Thơ Duyên Lê Chiều Giang Nguyễn Thị Khánh Minh Đỗ Hồng Ngọc Lời bạt
- Đọc thơ bạn thơ: “Sương khói trăm năm” của Võ Tấn Khanh Đỗ Hồng Ngọc Nhận định
- Ông Nguyễn Hiến Lê Và Tôi Đỗ Hồng Ngọc Hồi ức
• Lời Bạt Thơ Duyên Lê Chiều Giang Nguyễn Thị Khánh Minh (Đỗ Hồng Ngọc)
• Thơ Duyên, Lê Chiều Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh (Nguyễn Xuân Thiệp)
• Đọc bài thơ “Say Yêu” nghĩ về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến (Vũ Thị Hương Mai)
• Lê Ký Thương, Khép Lại Những Hẹn Hò... (Trần Thị Nguyệt Mai)
• Về phong cách bình thơ của Châu Thạch (Đặng Xuân Xuyến)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |