27-3-2024 | VĂN HỌC

Đọc vài bài thơ của Đoàn Xuân Thu (*)

  LƯƠNG THƯ TRUNG


    Nhà thơ Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu, là tác giả mới đến với Thất Sơn Châu Đốc vào những ngày cuối tháng 10 năm 2008, vậy mà ông đã có 36 bài thơ trên trang nhà này. Điều đó cho thấy Đoàn Xuân Thu chuyên chú làm thơ hơn là viết văn dù ông có vài ba bài tùy bút ngắn vẽ nên nỗi niềm của mình qua những chặng đời.


Theo tiểu sử ghi ở phần “vài hàng về tác giả”, Đoàn Xuân Thu còn rất trẻ. Ông sanh năm 1951, tại Mỹ Tho; quê nội gốc người Chăm vùng Châu Giang. Thuở nhỏ học trung học Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) và Trương Vĩnh Ký (Sài Gòn). Ngoài ra, được biết ông có học Đại học Văn Khoa và Sư Phạm Cần Thơ, rồi dạy học, đi lính và làm thơ như bao chàng trai ngày ấy nhiều mộng mơ một thời lãng mạn.


Trong một bận hành quân ngày cũ, lúc tác giả mới chập chững quân hành, nhưng cũng nhận ra đời lính mong manh với khói thuốc lung linh vào một buổi chiều mưa ướt đồng bằng Tân Phú Trung vùng Bình Đại, Bến Tre :


“Chiều! chiều mưa nhiệt đới đẫm đồng bằng,

trùm kín poncho về Tân Phú Trung

giọt ngắn, giọt dài xuôi triền nón sắt

bàn tay che khói thuốc đời mong manh.”

(Tân Phú Trung)


Nhóm chữ “đẫm đồng bằng”, “xuôi triền nón sắt”, “đời mong manh” làm cho câu thơ lắng xuống, ý thơ mang mang và tứ thơ có thần hồn khiến người đọc dễ đồng cảm cùng những suy tư và nỗi niềm của tác giả.


Rồi người lính trận ấy cũng như bao chàng trai trẻ ở tuổi đôi mươi của thời chinh chiến cũ ấy khi bước vào đời là họ mang trong lòng cả một thời yêu dấu thiết tha với những mối tình rất lãng mạn mà chơn thật, rất ngọt ngào hương vị nụ hôn đầu, mà mỗi mảnh đời phiêu lãng nào mà không qua một lần những nụ hôn đầu thân ái ấy:


“Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

vị măng cụt, nụ hôn đầu hai đứa

ngọt hóa đời ta, bớt những đắng cay.


Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

múi măng cụt, một vầng trăng, vằng vặc

dõi theo ta trong đạn lửa quê nhà.”

(Măng cụt)


Chia nhau nửa trái măng chin ngọt ngào như chia nhau nụ hôn gói trọn tình nồng, người con gái vườn măng ngày ấy như cánh hoa đời tươi đẹp để cánh bướm Đoàn Xuân Thu cột chặt hồn mình với hương đồng cỏ nội ấy mãi mãi những ngày :


“Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

mủ măng cụt giữ chân con bướm dại

từ phương nào sao lại lạc đến đây?”

(Măng cụt)


Nhưng thực tế dòng đời, nếu chỉ có thế, tức là yêu nhau rồi gần nhau và sống bên nhau trọn kiếp thì thi sĩ làm gì có những bài thơ bất hủ như “Hai sắc hoa tigôn” của TTKH, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, và nhiều bài thơ khác trong vườn hoa văn học. Thế nên, Đoàn Xuân Thu cũng có cách trở và chia lìa cuộc tình lãng mạn nơi vườn măng cụt vào những mùa binh lửa cũ:


“Thôi vĩnh biệt em! vĩnh biệt vườn măng!

ta lại băng mình trong sóng gió

vườn măng cụt: mối tình đầu ta đó

xót tình ta, vận nước chẳng dài lâu

trúc mai chẳng được bạc đầu với nhau.


Nhớ mùa măng chín càng đau!”

(Măng cụt)


Trong một đoạn thơ khác, tác giả hé lộ cho người đọc một cách nhìn đời gần hơn về tuổi trẻ và chiến tranh, về chiến tranh và hòa bình, về chết và sống bằng những suy tư rất gần với dấu binh lửa mà rất sâu sắc trong nghĩa lý của đời sống :


“Ta, đời lính, cạn ngàn ly rượu đắng

hiệp định Paris; ngày mai ngừng bắn?

chiến tranh? hòa bình? chết? sống? hư không!

buồn chi em! vạn thọ đã vàng bông!


Trời cuối năm, giáp tết,

sống sót đã là may!

ly rượu này, cạn hết

cùng ta say đêm nay.”

(Cùng ta say đêm nay)


Khi dòng đời trôi, với người chân lắm tay bùn, người ta chỉ lo làm lụng cày bừa có lấy miếng cơm, họ ít mơ mộng; nhưng với tâm hồn nghệ sĩ, tác giả không khỏi bồi hồi ngồi nhớ lại tuổi đi học ngày nào. Những tà áo trắng của các cô nữ sinh trường trung học Nguyễn Đình Chiểu dịu dàng mà thanh khiết ấy là những bóng hình của một thời chôn chặt trong lòng khi chuyến tàu ra khơi rời xa bến phà Rạch Miễu mà hồn tác giả vẫn không nguôi tưởng nhớ khi chợt nhớ về một chuyến vuợt biển ngàn trùng:


“Nguyễn Đình Chiểu của thời áo trắng,

Mỹ Tho mình- sớm nắng, chiều mưa.

súp lê xa bến phà Rạch Miễu,

chung thủy Mỹ Tho, em vẫn chờ.”


Lạc Hồng, cây đa đà trốc gốc,

trôi rồi ra biển tuổi xuân anh.

cái thời tuổi trẻ anh yêu dấu,

đã chết lâu rồi bởi chiến tranh.”

(Mỹ Tho)


Để rồi có một bận ngồi nơi một bến bờ xa nào cách dòng sông cũ ngàn trùng, tác giả gợi cho ta một trời thương nhớ ấy


“Anh trầm tưởng nhánh sông quê

bao nhiêu nước đã trôi về những đâu?

bao nhiêu nước chảy qua cầu?

thời gian, phương thuốc nhiệm mầu, lãng quên?

Không! anh chẳng thể nào quên!

sáng ngơ ngẩn sáng, chiều xiêu xiêu chiều.”

(Một nhánh sông quê)


Đoàn Xuân Thu có cái chung tình của một người đi xa nhớ về. Tác giả nhớ tà áo trắng của cô học trò trung học, nhớ nụ hôn đầu nơi vườn măng cụt, nhớ nhánh sông quê và rồi tác giả lại nhớ Thu, tên của một cố nhân của vùng sông nước Bến Tre và mấy mươi năm qua vẫn chưa một lần hội ngộ:

“Thơ bất chợt như cơn mưa mùa hạ

gợi ta về vùng quê, Thu đã xa:

Em sương khói... vườn dừa mơn xanh lá

tóc mai dài em bay mãi trong ta

Sông nước Hàm Long, chiếc xuồng ba lá

ta xuôi dòng Tiên Thủy, bến sông xa.

Hôn từ biệt em đỏ bừng đôi má

Em Bến Tre, bông bưởi trắng sau nhà...

...................................


Thôi vĩnh biệt! em lấy chồng! Thu nhá!

nụ hôn xưa theo gió đã bay rồi

Anh phiêu bạt cuối trời, đời luân lạc

hạnh phúc tìm, đâu có? có thinh không!”

(Bến sông- Thu)

Là người giàu lòng nhân ái, Đoàn xuân Thu khi nghe tin quê nhà mưa tràn lũ lụt, tác giả không khỏi bồi hồi thương cảm cho một bóng dáng thân yêu nơi nước lụt quê nhà :


“Chiều quê người

em ơi!

mùa nầy lá rụng

mà đời anh là chiếc lá bay bay.


Chiếc lá bay bay

về đâu? về đâu?

có về quê cũ cho anh gởi về em

về Cần thơ quê mình

đang chìm trong mùa lũ

niềm thương nhớ khôn nguôi.”

(Thương em, quê mùa lũ)


Lòng chung thủy ở Đoàn Xuân Thu còn có cả mái ngói rêu phong của ngôi trường cũ, nơi mà tác giả nhớ lớp, nhớ thầy, nhớ bạn bè và cả những vật vô tri trong lớp như bàn ghế bảng đen cùng phấn trắng mà sao như có linh hồn mời gọi người học trò cũ nhớ về, tha thiết lắm những mùa xa trường đằng đẵng mấy mươi năm:


“Thưa thầy!

ngàn dặm xa con bay qua biển bắc

tay con nắm chặt chiếc khăn tay

nước mắt con rơi dài theo biển

Thái Bình ơi! biển mãi chẳng êm đâu!


Thưa thầy!

cho con vào lớp cũ

ngồi lại chiếc bàn xưa”

(Trường xưa)


Những người “thầy xưa ấy” giờ cũng đã là những “người của muôn năm cũ”, “hồn ở đâu bây giờ”, mà tác giả vẫn nhớ. Điều đó, tượng trưng cho đức chung thủy muôn năm, không mờ nhạt. Để rồi, người của hôm qua tâm tình cùng tuổi nhỏ hôm nay như một lời nhắn gởi tha thiết, bồi hồi, đầy xúc cảm:

“Này em yêu! em gái!

em là tôi của thời thơ dại

thuở áo dài tóc xỏa chấm bờ vai

thuở thơ tình giấu hoài trong vở

tím tình yêu tím cả giấc mơ phai ..

(…..)

Này em yêu! em nhé!

đông dẫu dài nhưng xuân đà đến ngỏ

em sẽ có những điều em muốn có

cơm áo tự do!

nhưng có một điều rất khó

tuổi học trò theo gió sẽ bay đi.”

(Trường xưa)


Trong bài thơ “Cánh diều của đôi ta”, người đọc bắt gặp mối tình chân quê thời niên thiếu giữa vùng quê êm ái ngày xưa với hai đứa bé chơi thả diều; để rồi chàng trai quê ấy không còn cần những “cánh diều của đôi ta” nữa và chia ly một cuộc tình. Đọc thơ Đoàn Xuân Thu mà ta nghe như chuyện huyền thoại, nhưng ai sống nơi chốn quê mùa chắc chắn không nghĩ rằng câu chuyện tình của đôi trai gái quê này là huyền thoại bao giờ, mà là chuyện thật, có thật, và cảm động:

“Cuồn chỉ may của má,

tờ nhựt trình của ba,

bụi tre già của ngoại,

hồ dán của anh hai,

anh, em, thời thơ dại,

cánh diều của đôi ta.


Trời quê ta gió nổi

em chạy, đuổi theo anh

ngã xuống lại đứng lên

anh ơi! chờ em với!

Em chạy, đuổi theo anh

suốt một thời thơ dại;

em chạy, đuổi theo anh

suốt một thời con gái;

anh! cánh diều đôi ta

bay xa! đừng băng nhá!

Rồi một ngày tình ta thôi đã hết!

đốn đủng đỉnh về, anh kết chữ tân hôn

chẻ lá dừa, em giúp anh dựng rạp

anh đâu biết rằng dao cứa nát tim em.

thôi vĩnh biệt! dẫu còn yêu anh mãi!

anh! cánh diều thời thơ dại đã băng.


Em trả lại má cuồn chỉ may

bởi cánh diều đôi ta không còn bay, bay nữa.

em trả lại ba tờ nhựt trình

đăng lời mừng anh: hương lửa ba sinh.

bụi tre già của ngoại lại lên xanh

đâu biết được lòng em đà héo úa.

em trả lại anh hai hồ dán

bởi tình ta đà keo rã, hồ tan.


Đêm hợp cẩn, giao bôi

nếu anh nhớ tình ta thời thơ dại?!

quà cưới em đi, anh hãy mở ra

anh sẽ thấy: cánh diều của đôi ta

và em, ngàn giọt lệ!”

(Cánh diều của đôi ta)

Khác với anh chàng nhà quê xa cô gái quê quên “những cánh diều đôi ta”; lần này người tình nhỏ quên giữ lời hẹn ước:

“Nhỏ đưa anh, mặt mày ủ dột;

Mỹ Tho buồn, rớt hột, lâm râm…

xe lô Minh Chánh, vừa lăn bánh,

nhỏ lấy mù soa, chấm chéo khăn!


Chấm chéo khăn, sao ngăn dòng lệ?

“Xa anh rồi chẳng… dễ gì quên!

nhỏ xa anh, ngọn đèn vàng võ,

biếng châm dầu, lu, tỏ, thâu đêm?!”


Thâu đêm, nhỏ mươi lần căn dặn:

“Sài Gòn! đèn ngọn đỏ, ngọn xanh

học hành nha, đừng mê bóng sắc;

bướm ong gì! nhỏ vẫn chờ anh?!”


“ Chờ anh…” rồi phụ anh đi biệt!

cách mặt xa lòng, mới bốn năm;

lặng lẽ, nhỏ ôm cầm thuyền khác;

“ vẫn chờ anh…” rốt cuộc, anh lầm!!


Tình ta đâu phải tuồng cải lương!

“Sao vai nhỏ - đào thương - rất đạt?

đã vong phụ, lại còn vớt vát:

tiếng ru buồn, nhỏ hát bên song!”


“Ngày đi lúa chửa đơm bông

ngày về em đã con bồng con mang”*

chữ tình một dở hai dang

duyên ta thời có, nợ mang mang sầu.”

(Cay đắng)

Dẫn ra hai câu chuyện tình trái ngược, để thấy Đoàn Xuân Thu luôn góp nhặt những mảnh hồn cô lữ làm thơ mình thêm chút duyên thầm. Nó như cái bóng trăng làm mặt nước trên mặt hồ lung linh màu trăng sáng vằng vặc. Thơ không có tâm sự, thơ không hồn, dù nhiếu người khó tính cho rằng thơ nhiều tâm sự sẽ làm người đọc dễ nhàm chán.


Nhưng đến khi “lau lệ mình ên”, những câu thơ ở đây không còn là tâm sự thường tình nữa, mà là tâm sự của một người con xa mẹ già và khắc khoải nhớ về. Ai dám bảo lòng thương cha nhớ mẹ là chuyện thường tình không cần nói ? Tôi nghĩ, ở đây, tác giả giữ được cái đạo làm con dù xa bao nhiêu dặm, già bao nhiêu tuổi đời mà lòng vô tâm không nhớ cha mẹ già canh cánh bên lòng nhớ mình, thì làm thơ hay để làm gì khi cái tình mẫu tử thiêng liêng mà ta dám nhẹ quên như nắng sáng mưa chiều hoặc gió tạt bên hè cây quên gió cuốn lá xa cành !?:

“Em còn có mẹ già bên đó!”

tiếng thơ buồn như tiếng thở than !

anh đọc thấy : “ ...hai hàng lụy nhỏ...

...có mẹ già biết bỏ cho ai ?!”*


“Anh cũng có mẹ già bên đó!”

mẹ anh đã nằm dưới mộ sâu.

Cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ;

mẹ chắc nhớ anh, nhớ để rầu.


Hai lăm tháng chạp về tảo mộ;

hẹn lần, hẹn lửa, hẹn năm sau.

Năm nào cũng vậy, tiền không có;

không tiền, không có vé máy bay!


Ngày khánh tận mà anh khánh kiệt;

chỉ biết tàng xe đến phi trường.

“Ai về xứ Việt, quê hương đó

cho ké, dùm tôi, nỗi đoạn trường!”


Nỗi đoạn trường, áng chừng em khóc;

vẫn còn ai đó vỗ về em,

ai đó làm em không khóc nữa,

nỗi buồn nhớ mẹ, chắc rồi quên.


Anh nhớ mẹ, rồi anh cũng khóc;

Melbourne buồn, anh lau lệ mình ên!

(Lau lệ mình ên)

Tình mẫu tử thiêng liêng đó, Đoàn Xuân Thu nhiều lúc bất lực trước những chữ dùng; bởi chữ nghĩa nào nói hết cái tình mẫu tử thiêng liêng, bao la bất tận ấy !


Xin mời bạn nghe tác giả diễn đạt lòng nhớ mẹ già qua “ Ngọn đèn chong mắt”:

“Con xa rồi đất quê,

đêm xuống thuyền vượt biển;

có ngọn đèn chong mắt,

đăm đăm đợi con về.


Con đã qua

mùa đông quê người

lạnh thấu xương!

để con nhớ

quê nhà ta

cả một trời nắng ấm.

Con đã qua

mùa hạ quê người

cháy rát da!

để con nhớ

quê nhà ta

cuối năm trời chớm lạnh;

đất quê người,

thân con, đời cô quạnh,

tha thiết hoài,

nỗi nhớ má, thương quê.


Xưa bến cũ con đi;

nay bến cũ con về

mòn mõi má đợi mong,

trong sức tàn, lực kiệt:

đèn khô dầu, lụi bấc

đôi mắt khép lại rồi.


Lá rụng phải về cội!

Sao con lạc lối về?

bởi ngọn đèn chong mắt

giờ đã tắt thiên thu.”

(Ngọn đèn chong mắt)

Tình cảm ấy với một người con coi đạo hiếu là trọng, còn mãi dạt dào trong lòng nỗi khát khao nhớ tưởng:

“Lẽ công bằng có cho và có nhận,

má chỉ cho chưa có nhận bao giờ;

má cho con cà một đời lận đận

nhận của con nếu có chỉ là thơ.


Ngàn pho kinh sách con đã học,

hữu hạn vô cùng chữ nghĩa ơi!

cho vô hạn một đời lao nhọc,

những lầm than, má đã cưu mang!


(…..)


Ôi! má của con, má của con!

từ nay thôi chắc chẳng còn ai,

thương con như thế nữa?

bếp lửa chiều hôm chợt tắt rồi,

mờ bóng má chập chờn trên vách lá,

má về đâu? sinh, tử: cõi vô thường.


Ôi! má của con, má của con!

từ nay thôi chắc chẳng còn ai,

thương con như thế nữa?

xiêu lạc tha hương, phiêu bạt sầu,

côi cút bay giữa đời giông bão,

ước vọng tương phùng là ảo vọng

má thương ơi !!!

(Nhận của con nếu có chỉ là thơ)

Tình mẫu tử thiêng liêng ấy cũng chính là tình yêu quê hương chan chứa tấm chân tình nơi tác giả:


“Chiều cuối năm nhớ quê nhà, nhớ má…

nhớ vô cùng bông mận, trắng vuờn xưa;

phiêu bạt bao năm, cùng trời cuối đất,

con vẫn muốn về gánh mận má ơi!"

(Con vẫn muốn về quê gánh mận)


Rồi nào là bóng dáng xuồng ba lá, chiếc cặp đệm, nắm xôi nếp rặt, ngọn khói nấu cơm, đồng bưng, cỏ lát, ruộng vườn…, mỗi mỗi làm nên nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết biết dường nào !

“Suốt một thời thơ ấu con mang theo:

cặp đệm má đương, nắm xôi má nấu

xôi nếp một, bếp bình minh khói toả

đường mía lau thơm, vị ngọt quê nghèo!


Xuồng ba lá má là con đò dọc

hai lượt: đến trường, tan học, đón, đưa

(ngày tựu học con trốn về với má

số phận, dù không muốn, vẫn tha phương?!)


Con lớn lên, con đi vào chiến trận

hành quân hoài mấy bận lội đồng bưng

sao vòng vọng nhịp chày xưa, má giã ?!

giã cỏ bàng, đương cặp đệm, nhớ thương!


Nhớ má đồng bưng, ruộng, vườn, rẫy bái

chưn sình lầy, lúa nếp, cánh đồng mưa

chiều dừng quân, trợn trạo lua cơm sấy

con bùi ngùi, nhớ lại nắm xôi xưa.


Má đồng bưng rưng rưng tình mẫu tử

thương má nhiều, thương cặp đệm, nắm xôi!”

(Cặp đệm, nắm xôi)

Nhà văn J.M.Guyau gọi “Cái đặc quyền của nghề làm thơ là không cần phải chứng minh, không cần phải viện chứng, mà vẫn thâu nhập vào trí não ta những điều mà ta không thể chối cãi được. Vì không gì hơn tình cảm con người (….) Đó là tất cả các điều mà ta đã tư tưởng, đã cảm giác, đã luyến ái từ xưa. Nhà thi sĩ chân chính đích thị là người biết gọi những tiếng vang trong đáy lòng ta vậy.” (**)


Qua nhận định của J.M.Guyau vừa dẫn và qua vài bài thơ của Đoàn Xuân Thu tình cờ mà tôi đọc được, không thể có một cảm nhận nào khác hơn là trong thơ Đoàn Xuân Thu chan chứa nỗi niềm. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ bạn, nhớ trường, nhớ người yêu cũ và đăc biệt nỗi nhớ thương mẹ già nay không còn, tất cả làm thành một hồn thơ miên man nỗi nhớ. Thơ Đoàn Xuân Thu không mới; chữ dùng không cố trau chuốt cầu kỳ, vận thơ không chạy theo trào lưu làm mới thơ như nhiều tác giả, nếu không muốn nói tác giả là một người làm thơ còn nặng phần cổ điển, nhưng nhờ tác giả đã tích lũy nhiều chất liệu qua dòng sông đời mấy mươi năm nhiều sóng gió nên thơ ông gần gũi với những thế hệ già và lưu lạc. Chính vì vậy, thơ Đoàn Xuân Thu trầm lắng và buồn, tứ thơ không lạ mà làm người đọc dễ rung động, hồn thơ mang mang nỗi nhớ về một thời xa lắm, trải dài hơn năm mươi năm !!! Và Đoàn Xuân Thu đã “biết gọi dậy những tiếng vang trong đáy lòng ta vậy!”


Lương Thư Trung

Houston , ngày 06-02-2009


Phụ chú:

(*) Tất cả các câu thơ dẫn trích từ trang nhà Thất Sơn Châu Đốc, mục Thơ, tác giả Đoàn Xuân Thu.

(**) Nguyên văn lời trích bằng tiếng Pháp, trong bài “La poe’sie” của J.M.Guyau : “C’est le privilège de l’art que de ne rien de’montrer, de ne rien prouver, et cependant d’introduire dans nos esprits quelque chose d’irre’futable. C’est que rien ne peut pre’valoir contre le sentiment. (…) C’est ce que vous avez pense’, senti, aime’ . Le vrai poète est celui qui re’veille ces voix.”


Lương Thư Trung

Nguồn: thatsonchaudoc.com