1. Head_

    Lam Phương

    (20.3.1937 - 22.12.2020)

    Lưu Trung Khảo

    (.0.1931 - 22.12.2015)

    Nguyễn Hiến Lê

    (8.1.1912 - 22.12.1984)

    Nguyễn Đình Nghĩa

    (5.10.1940 - 22.12.2005)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Thơ Tình Vương Đức Lệ (Giang Hữu Tuyên) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      11-11-2017 | VĂN HỌC

      Thơ Tình Vương Đức Lệ

        GIANG HỮU TUYÊN
      Share File.php Share File
          

       


          Nhà thơ Vương Đức Lệ
      (1937 - 2008)

      Thi sĩ và cũng là "tu sĩ" Phạm Thiên Thư trong những ngày đi theo chân Hoàng Thị Ngọ có một đoạn thơ tình như sau:

      "Em tan trường về

      Đường mưa nho nhỏ

      Chim non giấu mỏ

      Dưới cội hoa vàng

      ....

      Mười năm rồi Ngọ

      Tình cờ qua đây

      Cây xưa vẫn gầy

      Phơi nghiêng dáng đỏ

      Áo em ngày nọ

      Phai nhạt mấy màu"

      Vào giữa thập niên 60, Tô Thùy Yên:

      "Giữa mùa hạ khô tôi bốc cháy

      Đời vốn ngăn chia tôi bốc cháy một mình

      Bằng tiếng thất thanh cuống cuồng bay tan tán loạn

      Cánh chạm vào tường trong suốt của cô đơn

      Nhưng em đến kịp thời khỏa thân xin cứu lửa

      Tôi vốc đầy tay đôi vú áp lên môi

      Em xõa mái tóc rừng trầm hương mê trùm em lấp kín"

      Cùng là thơ tình, nhưng thơ tình của Phạm Thiên Thư và Tô Thùy Yên đã vô cùng khác biệt với thơ tình Vương Đức Lệ.


      Vương Đức Lệ dứt khoát không có cái vụ "mười năm theo Ngọ". Vương Đức Lệ cũng dứt khoát không có "vốc đầy đôi vú áp lên môi." Với Phạm Thiên Thư, như vậy quá chay tịnh không? Với Tô Thùy Yên, như vậy quá táo tợn chăng?

      "Đất lệch, trời nghiêng bỗng nhớ về

      Tình Em lãng đãng nhập hồn mê

      Bao giờ sông biếc khô dòng lệ

      Để tiếng thơ sầu bớt ủ ê?"

      (Nhập Hồn Mê, trang 35)

      Bao giờ sông biếc khô dòng lệ? Thơ tình hay có thể nói một cách khác, những mối tình thơ Vương Đức Lệ có lẽ chỉ là cái cớ, cái cơ duyên để từ đấy hoặc đẩy lên một cung bậc, hoặc phóng mình chìm xuống một thang âm là cả một vực sâu lìa cách, là cả muôn trượng cao xa thẳm của một tâm hồn bạt ngàn, bão lửa, phong ba...

      "Em đi rồi hồn tôi dông bão nổi

      Cuối Hạ buồn, trời đất đã sang Thu

      ....

      Xin tặng Em một đóa hồng đỏ thắm

      Mai xa rồi còn biết gặp nhau không?

      Ôm một nỗi nhớ trùng dương biển mặn

      Tình xanh xưa nghe muối xát trong lòng.

       

      Bài 'Trương Chi' đêm nào tôi đã hát

      Nghe tình trần còn chút vọng âm xa

      Khúc 'Biệt Ly' lênh đênh từ nốt nhạc

      Em đi rồi, hồn bỗng nổi phong ba!"

      (Dông Bão Hồn Tôi, trang 34)

      Thơ tình Vương Đức Lệ có lẽ chỉ là khối tình tưởng như rất nhẹ

      Còn có đêm nào phơi ánh nguyệt

      Tựa hồn nhau đợi giác chiêm bao?

      Chiều nay chợt có cơn buồn lạ

      Trời đất vô can cũng nhuốm sầu!"

      (Trời Đất Vô Can, trang 35)

      Nhưng đã khiến "trời đất vô can cũng nhuốm sầu." Tôi có lẽ là cũng rất "vô can" với những mối tình thơ của Vương Đức Lệ. Và tôi có lẽ cũng đã rất "nhuốm sầu" khi đọc:

      "Nắng xế, chiều nghiêng, bóng đổ dài

      Rừng thu hiu hắt lá thu phai

      Chân mòn lối cũ, đâu người cũ

      Ta một phương trời thương nhớ ai?

      (Cuối Thu)

      Hình như một giòng thơ là mỗi một giòng lệ chậm lăn trên má...

      "Ta ngồi vớt mảnh hồn tan

      Sông quê còn đỏ màu loang máu đào

      Em ngồi rửa bát cầu ao

      Tóc mây còn phả hương ngâu tưởng chừng."

      (Sinh Tiền, trang 51)

      Người đọc Vương Đức Lệ gần như không tìm thấy nơi thơ ông một sự xốc nổi quá đáng, một cách tân xa lạ, kiêu kỳ hay sự bùng nổ, phá vỡ, xóa tan ngôn ngữ, hình tượng nào.

      "Tóc Em nghìn sợi sắc không

      Xuân xanh gió biếc, Ha bồng bềnh mây

      Trời chiều mỏng lá Thu bay

      Chia anh từng sợi cuối ngày tuyết Đông"

      (sợi Tóc, trang 52)


      Mà gần như trái lại, bốn mùa thi ca, bốn mùa thơ Vương Đức Lệ chan chứa những cảm xúc chín muồi, sâu lắng, mênh mang của tài thơ chìm đắm, say sưa với muôn sắc màu, góc cạnh của cuộc sống.


      "Cây nghiêng nắng xế lưng đồi

      Vàng thu lá muộn chiều phơi bóng tà..."

      (Bóng Xế, trang 44)


      Hình ảnh trong thơ: có gì đâu. Chl là những hình ảnh cũ, thường nhật. Chl là cây nghiêng, chì là bóng xế, lưng đồi. Chỉ là ngày thu, chiếc lá rơi muộn trong buổi chiều. Vậy mà chỉ với hai chữ: "chiều phơi," toàn bộ cảnh tượng trở nên có linh hồn. Thơ tràn đầy sinh lực. Hình ảnh cũ trở nên mới. Chiều mà làm sao phơi được bóng. Hay bóng mà làm sao phơi được chiều. Vậy mà chỉ cần trao cho danh từ trừu tượng và động từ cụ thể hai nhiệm vụ bất ngờ, họ Vương đã dựng lên sừng sững một "bóng xế" tráng lệ, lấp lánh giữa thi ca.

      "Về qua thăm chiến trường xưa

      Oan khiên chứng giám, hận thù dửng dưng

      Sông xưa, nước cũ tanh lòng

      Rừng xơ xác lá bụi hồng bay theo.

      Xe qua dừng lại xóm nghèo

      Dấu chân ta sững, bóng chiều lạnh tê!

      Mưa xa lớp lớp mưa về

      Máu đào còn nhỏ cõi mê thuở nào

      Người chân mây, kẻ giang đầu

      Cùng nhau chung một giấc sầu chia hai.

      Lối về từng hạt mưa nay

      Xe qua phố thị còn ngây mắt nhìn"

      (Về qua Sông Bé, trang 123)

      Thơ Vương Đức Lệ không phẫn nộ, không vồ vập, không loạn cuồng, không gào thét, không rên đau mà là những trăn trở của hình sông, vách núi, của những thầm lặng, tưởng tiếc, nhớ nhung giữa hữu hạn và vô cùng.

      "Ngày hữu hạn cứ dần dần ngắn lại

      Đêm vô cùng thăm thẳm cứ dài thêm!"

      (Hữu Hạn Và Vô Cùng, trang 32)


      "Ta tiêu gần hết quỹ thời gian

      Mộng mới chưa xanh, mộng cũ tàn

      Sầu chín đong đưa chưa kịp hái

      Ngậm ngùi ngồi chuốc mảnh hồn tan"

      (Cạn Quỹ Thời Gian, trang 25)

      Ngậm ngùi chuốc mảnh hồn tan. Có thế ví thơ Vương Đức Lệ là những làn khói mỏng vươn lên giữa khung trời hiu hắt. Nhưng đối với tôi, những làn khói mỏng vươn lên giữa khung trời hiu hắt kia chính là sự báo hiệu nơi có sự sống của con người, nơi có nhịp đập của trái tim, nơi có hữu ngạn, tả ngạn và luôn cả trầm tích của giòng sông nhân sinh hùng vĩ.


      Nổi bật trong 220 trang thơ Vương Đức Lệ là những bài thất ngôn tứ tuyệt. Những bài bảy chữ, bốn câu đã làm rắn rỏi lại, quánh đặc lại không gian nhàn nhạt u buồn, dạt dào bất tận như gió đuổi trên ngàn lau.

      "Một chút tro tàn vữa đủ nhớ

      Một bình sắc sắc đựng không không

      Mấy tầng tháp cổ sau chùa đó

      Ai nhớ ai thơm khói vẽ vòng?"

      (Bài Ở Tháp Tro Chùa Vĩnh Nghiêm, trang 129)

       

      "Vương quốc ta nghìn vẻ tốt tươi

      Em là hoàng hậu chẳng về ngôi!

      Cố cung xa quá, hành cung lạnh

      Một mảnh trăng non, ngủ giữa trời!"

      (Vương Quốc Hoang Vu, trang 133)

      Tác giả "Chuyến Tàu Trên Sông Hồng", nhà văn Mai Thảo, một ngòi bút cột trụ của nhóm "Sáng Tạo" vào năm 1989 đã xuất bản tập thơ có nhan đề là "Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền" (nhà xuất bản Văn Khoa, California). Nếu ở bộ môn văn Mai Thảo đã làm say mê người đọc ông bằng lối tùy bút diễm lệ, thì ở bộ môn thơ, Mai Thảo đã khiến người ta kinh ngạc không ít với những bài thất ngôn tứ tuyệt:

      "Tả ngạn đòi ta một nhánh hoa

      Bên kia hữu ngạn vẫn thơm và

      Hương bay thần chú qua lìa dứt

      Mỗi buổi bên này mỗi lệ sa."

      (Tả Ngạn)

      Thất ngón tứ tuyệt của Mai Thảo cô đọng đến chừng như không còn cô đọng được nữa. Ngữ pháp và tứ thơ không đứng dừng lại ở mỗi câu tứ của bài thơ, mà như còn luôn rộng mở, chập chùng đi hoài, đi mãi... Ngõ ngách nào, triền dốc nào cũng bát ngát, cũng điệp trùng dư vị.


      Còn thất ngôn tứ tuyệt của Vương Đức Lệ thì sao?

      "Lã chã canh khua giọt vắn dài

      Thương trời đất cũ nhớ riêng ai

      Sao sa mấy cánh ngoài vô tận

      Thao thức đêm trường mộng đã phai."

      (Canh Khuya, trang 21)


      "Cuốn sách mở, từng trang chữ cổ

      Người ngàn xưa chép sử ngàn sau

      Lần theo từ ngữ tìm chân lý

      Chỉ thấy mây mù đáy vực sâu!"

      (Vực Sâu)


      "Hệ mặt trời mai tắt lửa rồi

      Hành tinh trái đất sẽ im hơi

      Quy trình, sinh, diệt ai vờn vẽ

      Bóng tối trùm lên chút phận người."

      (Tắt Lửa, trang 133)

      Sau câu tứ của Vương Đức Lệ, không hẳn chỉ là dư vị mà còn là ám ảnh xót đau, trăn trở giữa hai bờ khổ đau và hạnh phúc.


      Hình như tứ tuyệt của Mai Thảo, thơ của Mai Thảo là thơ đến từ khối óc. Hình như tứ tuyệt của Vương Đức Lệ, thơ của Vương Đức Lệ là thơ đến từ trái tim. Tứ tuyệt Mai Thảo như là một cô gái thị thành ngổ ngáo, điểm xuyết thêm một chút phấn son lãng mạn. Tứ tuyệt Vương Đức Lệ như là một thôn nữ dịu dàng, e ấp, mặn mà ẩn hiện một nụ cười duyên dáng. Tứ tuyệt Mai Thảo có thể như là một thước phim màu được gạn lọc, được dàn dựng công phu. Tứ tuyệt Vương Đức Lệ là một khúc phim tài liệu đen trắng, chân phương.

      Hai tài thơ, hai phong cách. Phong cách nào cũng đáng yêu. Phong cách nào cũng vượt.


      Vậy mà trong lần nói chuyện về thơ với cá nhân tôi hôm đầu Xuân Quý Mùi. Vương Đức Lệ chỉ khiêm nhường tâm sự, ông "chỉ là một người làm thơ và chỉ thích làm thơ, kể cả thơ vè (?) để ghi lại cảm xúc của mình trong mọi tình huống và chắt chiu như kỷ niệm trong đời."


      Cũng trong lần nói chuyện đó, ông đã nhắc nhở một bài thơ mà ông tự gọi "còn hôi mùi sữa" được sáng tác vào năm 1952 tại Hà Nội. Đó là một bài bảy chữ, nhưng sau đó trở thành thất ngôn tứ tuyệt có nhan đề là "Tường Đông":

      "Qua cửa nhà Em chiều lại chiều

      Tường đông ong bướm cũng về theo

      Nhà Em kín cổng cao tường quá

      Anh muốn làm dây hoa tim leo"

      Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ năm 1952, đã biết bao thăng trầm, đổi thay, hưng phế, vậy mà Vương Đức Lệ đã vẫn chì thủy chung "chắt chiu" mãi với mối tình thơ dại...


      Thơ vì thế còn là kỷ niệm. Kỷ niệm có khi rất đẹp. Có khi cũng rất buồn. Cái đẹp cái buồn trong thơ Vương Đức Lệ không hắn chỉ là cái đẹp và cái buồn "ý tại ngôn ngoại" của Hồ Dzếnh:

      "Tô Châu lớp lớp phù kiều

      Trăng đêm Dương Tử, mây chiểu Giang Nam"


      Mà ở Vương Đức Lệ, với tôi, cái đẹp và cái buồn đó đã trùm lấp hết tất cả chân trời, góc núi, khe sông, lòng biển luôn cả nhân gian khiến cho "cát trong sỏi đá" cũng đã phải "giật mình ngẩn ngơ."

      "Hồn về tám nẻo u minh

      Cát trong sỏi đá giật mình ngẩn ngơ

      Mai về một bóng ta ư?

      Nối kim cổ lại, lạnh bờ nhân gian."

      (Cõi Sầu Nhân Gian, trang 216)

      Nối kim cổ lại, lạnh bờ nhân gian. Vâng, tôi đã dường như lờ mờ dọc thấy được trong giòng thơ Vương Đức Lệ ánh mắt rưng rưng của người thi sĩ có dáng dong dỏng cao ở cuối một con đường cô tịch, một mình một bóng lặng lẻ âm thầm đi nối lại cổ kim. Không phải bờ nhân gian đang lành lạnh, mà chính lòng tôi cùng những người đang đọc thơ ông, cũng đang lạnh buốt...


      Giang Hữu Tuyên

      Tuần báo Đời, số 12, 19.7-26.7-2003

      -----------

      * Tủ sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG xuất bản -

      Virgina 2003 - ĐC liên lạc:

      P.O.Box 4653 - Falls Church, VA 22044


      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Thơ Tình Vương Đức Lệ Giang Hữu Tuyên Nhận định

    3. Bài viết về Vương Đức Lệ Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Vương Đức Lệ

       
      Cùng Tác Giả (Link-1)

      Những Bài Thơ Trên Giường Bệnh Của Vương Đức Lệ (Hoàng Xuân Trường)

      Vương Đức Lệ: Thơ sót còn trong trí nhớ (Nguyễn Mạnh Trinh)

      Thơ Tình Vương Đức Lệ (Giang Hữu Tuyên)

      Tưởng niệm thi sĩ Vương Đức Lệ

      (Phan Anh Dũng)

      Thi Sĩ Vương Đức Lệ Đã Đi Rồi

      (Nguyễn Thụy Long)

      Vương Đức Lệ, thơ tình của tuổi trẻ

      (Cao Thế Dung)

      Tưởng niệm Vương Đức Lệ (Nguyễn Mạnh Trinh)

      Nhà Thơ Vương Đức Lệ Đã Vĩnh Viễn Ra Đi

      (Linh Vang)

       

      Tác phẩm của Vương Đức Lệ

       
      Cùng Tác Giả (Link-2)

      Trang Thơ (Vương Đức Lệ)

      Thơ có trên mạng:

      - vietbang.com - poem.tkaraoke.com

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)

      Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)

      Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)

      Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)

      Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)