|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhận được cuốn tiểu thuyết Đường về thủy phủ của nhà văn Trinh Y Thư, nghiền ngẫm đọc mấy hôm và suy nghĩ viết đôi lời cảm nhận cho tác phẩm của ông.
Tiểu thuyết Đường về thủy phủ gồm 3 chương gần như là 3 truyện vừa kết hợp theo xu hướng mà tác giả nêu “trên mặt hình thức, bước sang thời Hiện đại, tiểu thuyết không nhất thiết phải duy trì tính dài hơi của một truyện dài. Cái thắt buộc cuốn tiểu thuyết ở đây không còn là cốt truyện hay nhân vật mà là phạm trù ý niệm, hoặc thông điệp hoặc cả hai”.
Tiểu thuyết Đường về thủy phủ có bối cảnh là trước và sau chiến tranh Việt Nam. Xuyên suốt tiểu thuyết của ông mà phần đầu là những gì khốc liệt trong chiến tranh, phần 2 là hậu chấn với những dư âm gặm mòn bản chất con người và phần 3 vẫn không thoát khỏi “chiến tranh” len lỏi trong cuộc sống dù ở nơi đâu. Tuy vậy, tác giả của tiểu thuyết khẳng định, ông không viết về lịch sử hay chiến tranh mà viết cảm nhận của ông về chiến tranh, mượn nó làm phông nền cho những gì hư cấu trong tiểu thuyết. Như nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera có nói: “Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu hạ sử gia”
Phần I: Ký ức của loài bò sát
Loài bò sát làm ta liên tưởng đến cá sấu, rắn rết… phải chăng là cách nói ẩn dụ về tính “thú” của con người. Như câu nói của cô gái trong tiểu thuyết “…tại sao con người lại ác độc với con người như thế hả anh? Em không hiểu được”. Câu hỏi này thật ra cũng không có gì lạ, nó nằm trong phạm trù triết học mà từ xưa nay chưa có lời giải đáp chính xác và thỏa đáng nhất. Nhà triết học người Pháp Blaise Pascal cũng đã từng nói: “Con người vừa là vinh quang vừa là cặn bã của vũ trụ” như một cách đúc kết con người có thể vừa yêu thương vừa căm ghét, có thể vừa nhân ái vừa ác độc. Trong tiểu thuyết thì nhân vật “Gã” trả lời cô gái là do ý thức hệ, đó là câu trả lời một phần đúng trong những tội ác của chiến tranh chăng!? Và vì cái ý thức hệ đó mà cảnh tàn khốc nhất, hung bạo nhất “thua cả loài cầm thú” (sự thật có khi còn hơn) lại làm ta truy ngược vấn đề “Ký ức của loài bò sát” phải chăng là còn hiền hơn so với con người bây giờ???
Nói gì thì nói, mạch truyện vẫn là Đường về thủy phủ. Ở cuối phần này, cô gái người dân tộc H’Mông cùng cả buôn bản bị giết bên bờ suối khi cô đang mang thai. Hành trình trở về của cô cùng đứa con là cuộc nói chuyện khi đang trôi dần về thủy phủ. Đi theo cô là cả buôn làng cũng yên lặng lờ đờ trôi đi nơi sẽ gặp lại người thân trong tình yêu thương, “thủy phủ ở xa lắm, mãi ngoài biển, nhưng bố dặn mẹ con mình cứ xuôi dòng nước này là đến.”[…] “là nơi không còn bom đạn hay hận thù, nơi mẹ con mình sẽ gặp bố, bố sẽ yêu thương bảo bọc mẹ con mình. Thôi con nhé, con hãy ngủ đi, khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi”.
Phần II: Dưới những gốc nho biển
Một cái tiêu đề lãng mạn như muốn xoa dịu những thảm khốc của cuộc chiến ở Phần I, và những thảm cảnh không kém đớn đau hơn ở Phần II mà kiếp người phải trải qua trong thời hậu chiến. Nhân vật “Cô” trong câu chuyện mang tâm bệnh, “bị kẹt cứng trong bi kịch đời sống, bị đè bẹp bởi tấn bi kịch lịch sử khốc liệt mà thế hệ cô gánh chịu”, trở nên bất lực trước những giá trị cuộc đời dần mất đi khiến con người trở nên tàn phế đến mức vô cảm mọi sự, miễn nhiễm với mọi nỗi đau, bình thản chấp nhận sống để chờ chết, mặc nhiên sống có gì vui, chết có gì khổ rồi cuối cùng tìm đến “thủy phủ” như một nơi chốn trở về.
Ở chương này, người phụ nữ trầm luân ấy đi về phía biển, ngồi chờ vô định dưới những gốc nho biển… với một nỗi buồn vô tận và cô quyết định bước lên chiếc thuyền không thể trở lui của định mệnh rồi biến mất trong làn nước sâu thẳm để về thủy phủ, nơi cô tìm được sự an tĩnh, thoát khỏi bị kịch đời sống. “Nó là tiếng gọi từ cõi xa xăm huyền bí kêu réo cô hãy trở về thủy phủ".
Phần III: Đường về thủy phủ
Là tiêu đề chính của tiểu thuyết. Ở phần này tác phẩm có vẻ mang phong thái tự do hơn. Những suy tưởng, những tâm niệm được diễn biến phức tạp và mâu thuẫn nhưng lại vô cùng thoải mái thi triển. Hai nhân vật: Gã Nhà Văn, Tôi, có khi là Cô lúc hòa nhập làm một, lúc lại tách ra khiến tác phẩm hư hư thực thực, rất hấp dẫn. Đó cũng là tính mâu thuẫn nội tại trong mỗi con người thể hiện một thái độ khắc khoải, một thái độ phản kháng, một thái độ an phận chấp nhận. “Và bởi tôi chỉ là ảo ảnh. Tôi chỉ hiện hữu trong thần trí tưởng tượng của gã”. Ở phần III này tính triết lý rất cao, sự dằn vặt nội tâm, truy cứu đến cùng sự cô đơn của con người “[…]tôi thốt nhiên hiểu ra cô đơn không phải sự trừng phạt, mà là một trạng thái tự nguyện có thể dẫn đến sự giải thoát trong tâm hồn. Thế nhưng, nó là một nghịch lý, bởi nỗi buồn sâu thẳm tự đáy lòng không thể nào tan biến đi được”.
Một điểm thú vị khác là nhân vật nữ trong Phần III chính là đứa con gái bị thất lạc năm 3 tuổi của nhân vật nữ trong Phần II. Khi cô con gái từ bên kia đại dương trở về và quyết định ở lại quê hương tìm lại nguồn gốc, tìm lại người mẹ đã khuất và đã thất lạc không còn nhớ mặt như một thôi thúc tìm kiếm quá khứ của bản thân để chính bản thân được an yên. Bởi bản thân cô là một người có trạng thái bất định về tâm thần, thường mơ những giấc mơ kinh khiếp và có những hành động điên rồ mất kiểm soát. Nhiều đoạn viết về mối liên hệ xuất thần giữa hai mẹ con: “Tôi có cảm tưởng mẹ tôi lúc nào cũng ôm ấp, vuốt ve và an ủi tôi. Ôi, tình thương của mẹ, chẳng có gì quý báu hơn. Nhờ tình thương đó, tôi không còn mơ những giấc mơ hãi hùng nữa.”
Thủy phủ ở phần này chính là ngôi đền thờ người mẹ mà tín ngưỡng của dân làng nơi ấy đã dựng lên, cũng là sự gắn kết tình mẹ con, tình bố con (dù chỉ là bố dượng). “Em sẽ về sống trong ngôi đền thờ mẹ em ở Cống Liệp… Em sẽ trông nom ngôi đền và ngày đêm ở cạnh mẹ em. Em chỉ ước ao chừng ấy”. […] “Hai người, một già một trẻ, từ bãi cát níu nhau đi vào trong đất bằng hướng về phía ngôi đền le lói ánh đèn trên mỏm đất cao” . Ở đây có cả sự gắn kết cuối cùng mới nhận ra giữa cô gái và “gã nhà văn khi ông ta chết sớm vì bạo bệnh”. Hai kẻ thất lạc trong cõi trần, đến lúc chia tay ra đi không trở lại. Ở ý nghĩa nào đó, tôi cũng ra đi như gã”. Nghe như cô gái ấy đã về thủy phủ nương tựa nơi người mẹ và cả ở nơi người đàn ông của đời cô.
Toàn bộ tiểu thuyết Đường về thủy phủ có vẻ hơi nặng nề với những nỗi thống khổ của con người về thể xác lẫn tinh thần, những cảnh giết chóc ghê rợn, ám ảnh, những cảnh nhục dục nhu cầu, những dằn vặt bản thân như câu hỏi muôn đời “ta là ai, ta từ đâu đến, ta đi về đâu”. Nhưng xuyên suốt tác phẩm vẫn là sự nhân bản thể hiện qua những đoạn văn dạt dào tình cảm miêu tả cảnh đẹp quê hương, những địa danh, những xóm làng nơi tác giả đi qua dù là hòa bình hay trong chiến tranh, những trò tinh nghịch thuở thiếu thời, tình yêu đầu đời, tình bạn bè, tình thân và cuối cùng nhắm đến vẫn là CHÂN-THIÊN-MỸ cho dù đó chỉ là hy vọng, là đốm lửa yếu ớt trong đêm đen mịt mù… Con người vẫn sẽ hạnh phúc khi không đánh mất đi sự cảm nhận CÁI ĐẸP của tình người trong kiếp sống này. Đó chính là sự cân bằng trong tác phẩm cũng như sự cân bằng đời sống của chính tác giả:
“Tôi vừa đạp xe vừa cố nhìn lần chót những hình ảnh của Hà Nội mà chẳng biết bao giờ mới có dịp về nhìn lại. Hồ Hoàn Kiếm vẫn xanh biếc với tháp Rùa, cầu Thê Húc, đình Trấn Ba. Đường Hoàng Gai, nơi bán đèn Trung Thu mà hằng năm mẹ tôi dắt chị em tôi ra mua đèn về chơi. Trường nữ học Đồng Khánh với những tà áo bay. Rồi vườn trại Ngọc Hà với chợ hoa những ngày cận Tết, những con ngõ nhỏ như ngõ Phất Lộc, ngõ Cấm Chỉ phố Hàng Bông gần nhà, nơi tôi hay ngồi ăn quà buổi sáng… Rồi năm Cửa Ô, cửa nào cũng có vết chân tôi…”
Và trong thời gian lưu lạc thuở thiếu thời, nhân vật “Tôi” có con ngựa nhỏ đặt tên là Tiểu Thố, người và vật quý mến nhau một cách đặc biệt và con ngựa nhỏ đã đưa nhân vật “Tôi” đi khắp vùng đồi núi Yên Bái, nhìn ngắm những cảnh đẹp, những địa danh như cánh đồng Mường Lò, hồ Thác Bà, thác Pú Nhu, Mù Cang Chải… nơi có những cánh rừng thưa, những thửa ruộng bậc thang và tất nhiên những người Tày, người H’Mông chất phác.
“Tôi gặp những người dân hiền lành, có những cô gái môi má đỏ au như thoa son, trên người mặc quần áo thổ cẩm, thường là màu đen có những hoa văn lạ mắt, đầu chít khăn màu hoa rừng, lưng đeo gùi mà họ gọi là “lù kở”, nối đuôi nhau đi thành đoàn sáu, bảy cô trên con đường đồi gập ghềnh uốn lượn, xa xa là cánh đồng màu vàng mượt mà, óng ả.”
THỦY PHỦ, một địa danh tín ngưỡng dân gian (nơi ở của thủy thần dưới đáy biển, đáy sông – theo từ điển Chữ Nôm). Tiểu thuyết Đường về thủy phủ mượn địa danh ảo này để ngụ ý sự trở về của con người, rửa sạch mọi đau khổ, mọi dơ bẩn chốn trần gian. Tại sao không phải là địa phủ như bình thường nơi có thể là núi non trùng điệp, cánh rừng thâm u, cánh đồng vô tận... mà lại là thủy phủ. Có lẽ tác giả mượn chữ THỦY, ý nói đến sự gột rửa. Ở đây ta có thể liên tưởng đến nghi thức rửa tội của Cơ đốc giáo bằng cách dìm mình hoặc ngâm mình xuống nước để sám hối tội lỗi, để được ân sủng, cứu độ từ Đấng Tối Cao. Nói như thế để hiểu Thủy phủ ở đây là sự trở về một cách thanh sạch, trong lành, nó không mang ý nghĩa là thiên đàng, mà đơn giản chỉ là chốn BÌNH AN, là nơi con người được TÁI SINH.
Đỗ Anh Hoa
(TP.HCM ngày 5/9/2024)
Đỗ Anh Hoa là một họa sĩ từng có nhiều cuộc triển lãm ở Việt Nam và quốc tế. Hiện chị là giảng viên Đại học Công Nghiệp TP. HCM.
- Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư Đỗ Anh Hoa Nhận định
• Đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Doãn Cẩm Liên)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
• TẠP CHÍ NGÔN NGỮ -Ấn bản đặc biệt- TRỊNH Y THƯ: Văn Chương Nghệ Thuật & Những Điều Khác (Văn Học Press)
• Trịnh Y Thư - Và khi về ngồi dưới những gốc nho biển (Bùi Vĩnh Phúc)
• Đối thoại với Trịnh Y Thư: Văn chương, Nghệ thuật & Những điều khác (Đặng Thơ Thơ)
• Giới thiệu Tiểu thuyết "Đường Về Thủy Phủ" và Tập truyện "Người Đàn Bà Khác" của Trịnh Y Thư (Văn Học Press)
• Trịnh Y Thư (Học Xá)
• Đọc Chỉ là Đồ Chơi (Nguyễn Mạnh Trinh)
- Cảm nhận nhân đọc phân đoạn 1-3 tiểu thuyết“Đường Về Thủy Phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư (Nguyễn Thị Khánh Minh)
- Cảm nhận nhân đọc “Dưới những gốc nho biển (phân đoạn 10-18)” trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ”... (Nguyễn Thị Khánh Minh)
- Cảm nhận nhân đọc Ký Ức Của Loài Bò Sát (Một chương trong tiểu thuyết "Đường Về Thủy Phủ"...) (Nguyễn Thị Khánh Minh)
- Mạn đàm cùng nhà văn Trịnh Y Thư
(Lê Quỳnh Mai)
(Nguyễn Mạnh Trinh, Nhã Lan)
- Lại chuyện “Đồ Chơi” với Trịnh Y Thư
(Trangđài Glassey-Trầnguyễn phỏng vấn)
- Ký ức giữa nhớ và quên (Phạm Xuân Nguyên)
- Trịnh Y Thư: nét linh diệu của sự bất toàn
(Trần Vũ)
• Trần Vũ - Phép tính của một nho sĩ (Trịnh Y Thư)
• Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau chỗ nào? (Trịnh Y Thư)
• Đại dịch COVID-19, đọc lại La Peste của Albert Camus (Trịnh Y Thư)
• Trần Doãn Nho: Chữ Nghĩa - Văn Chương - Cuộc Đời (Trịnh Y Thư)
• Điểm sách Butterfly Yellow/Bướm Vàng của Lại Thanh Hà (Trịnh Y Thư)
- Phát biểu của nhà văn Trịnh Y Thư về GSAN Lê Văn Khoa
- Nguyễn Lương Vỵ: Vấn Nạn Của Cái “Being”
- Hồ Xuân Hương và tôi trên hoang đảo
- Ở Hay Về
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Trang Thơ (Phù Sa Lộc)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |