|
Lam Phương(20.3.1937 - 22.12.2020) | Lưu Trung Khảo(.0.1931 - 22.12.2015) | Nguyễn Hiến Lê(8.1.1912 - 22.12.1984) | Nguyễn Đình Nghĩa(5.10.1940 - 22.12.2005) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Trần Dzạ Lữ
Mỗi lần nhắc tới cái tên Trần Dzạ Lữ là ký ức gợi đến ngay bài thơ “Bài thơ thứ hai cho người tình sầu cố xứ”. Tôi còn nhớ bài thơ đó đăng ở tờ Văn. Đó không phải là bài thơ đầu của Lữ. Cũng không phải là bài thơ hay nhất của Lữ. Tôi nhớ cái tựa đề. Nói cho đúng, tôi nhớ hai chữ “cố xứ”. Người tình sầu cố xứ. Nghe là lạ. Cố xứ cũng như cố hương. Nhưng nghe có cái gì ngậm ngùi hơn là cố hương.
Hỡi người em lệ sầu mắt đỏ
Áo trắng dài trong nắng vàng rưng
Em biết không chiều nay anh nhớ
Thân lạc xứ người hồn đau gửi cố hương.
Trong vài bài thơ về sau, thỉnh thoảng Lữ có dùng lại từ này. Không phải cho tựa đề, mà là trong dòng thơ, nghe da diết vô cùng:
Những hồn vắt trên non
Cũng đau tình cố xứ.
(Thánh đọa)
Nhớ điên trời cố xứ
Áo tím ai qua cầu
Ta như là ngọn gió
Hôn tóc đầm mưa ngâu...
(Đêm mưa nghe tiếng đàn bầu).
Đọc Lữ, ta sẽ thấy cái “tình cố xứ”, cái “trời cố xứ” đó – hãy tạm gọi là “tâm thức cố xứ” - loanh quanh lẩn quẩn dưới những giọng thơ của chàng, không lúc này thì cũng lúc khác. Cố xứ là nơi chốn cũ. Là Huế. Lữ/Huế. Tôi/Huế. Hồ Minh Dũng/Huế. Lê Bá Lăng/Huế. Mường Mán/Huế. Trần Hoài Thư/Huế. Vân vân. Một cái tên thường gọi nhớ những cái tên như thế. Vì Huế thích thơ thích văn. Người Huế có cái lạ. Đang sống ở Huế, với Huế, mà hễ mới rời Huế, xa Huế, là nghe Huế-thương-Huế-nhớ y như thể bỏ Huế, y như thể không biết khi mô mới về lại Huế. Mà có xa gì cho cam. Ở Sài Gòn (hay ngay cả ở miền Tây) thì chỉ là một cái vé máy bay hai, ba tiếng đồng hồ. Hình như đó là thứ tâm thức đặc thù Huế. Ở thì muốn đi (vì buồn quá!). Mà đi thì lại nhớ. Nhớ thì muốn về. Nhưng về thăm chứ không muốn ở lại. Huế là cố xứ. Huế trở thành cố xứ. Khi đã gọi là cố xứ là không hy vọng gì về lại được chốn cũ. Hay nếu có về lại cũng không thể tìm ra những gì mà mình thích, mình tưởng tượng. Nói cho đúng, cố xứ là thứ thiên-đàng-tuổi-nhỏ đã mất. Cố xứ đó có người em gái, có bà mẹ già, có “nhai bắp rang đọc chuyện Kim Dung”, có tuổi thanh xuân, có em thắt bím màu hồng, có một cô Tôn Nữ nào đó... Tóm lại, đó là nơi chứa đựng những thứ mà cho dù có trở lại Huế thì vẫn không thể tìm lại được. Hãy nghe Lữ than thở:
Bây chừ hoa phượng nở
Rưng rưng chiều nội thành
Ta về phơi thương nhớ
Bên đường kỷ niệm xanh
Một mình đi loanh quanh
Kiếm tìm mùi hương cũ
Phượng nở sen cũng nở
Sao không nở tình em?
...Tìm đâu ra em hở
Tôn Nữ của ngày xưa?
Một thời ai nghiêng nón
Sửng sốt hồn trai tơ!
(Mùa hạ về Thành Nội)
Thực ra, cái tâm thức cố xứ đó của Lữ còn được hình thành từ một tình huống dở khóc dở cười khác của thời đại: lính-học trò. “Là cậu học sinh, từ sân trường bước vào ngay quân trường, chiến trường, nhiều khi chưa kịp kinh qua cuộc sống xã hội, trong các quan hệ nghề nghiệp, tình yêu, hôn phối. Trong mỗi cậu học trò mười lăm, mười bảy, đã có một người lính mai phục đợi chờ. Và trong mỗi người lính về sau, vẫn còn cậu học trò ẩn náu, dở dang” (Đặng Tiến, Lời tựa cho tuyển tập “Thơ miền Nam trong thời chiến”). Đặng Tiến thật chí lý khi phát hiện tính cách khá đặc thù đó của một thế hệ lớn lên là đã thấy chiến tranh nằm lù lù trước mặt! Nói một cách khác, Lữ nằm trong đại đa số những người trẻ tuổi chưa sống hết những nôn nao tươi rói tuổi học trò thì thoắt một cái, lao vào vòng binh lửa.
Chính nơi đó ta và em đã sống/Tròn những ngày ngai ngái tuổi mười lăm (...)
Chính nơi đó hồn ta như chiếc áo/Chưa bị người đời ruồng rẫy đem vày (...)
Chính nơi đó tóc em bay từng sợi/Cho ta thầm yêu mây của trời sao. .
(Ngày vẫy biệt khu rừng mơ tuổi nhỏ)
Đang “ngai ngái tuổi mười lăm”, hồn còn “như chiếc áo” mới, nhìn “tóc em bay từng sợ” để mà mộng mơ, thì bỗng “khi không tháng giêng lên núi/Trời đày ta và thần thánh xa nhau”, Lữ đành phải trút bỏ lại tất cả để lên đường. Đi đâu? Đi đến nơi:
quân hai bên ngã gục giữa đất trời
mây khóc đầu non vì buồn ly loạn
cỏ cây run trong gió lạnh tanh rồi...
(Chiều Mai Lộc)
Tất cả thoáng chốc như một cuộc đời dụng ngược:
Bốn năm thằng lơ láo
Áo quần rách tả tơi
Ăn cơm bên xác người
Tay bốc, tay cầm súng
Ăn xong múc nước ruộng
Uống đại cho qua ngày
Quê nhà em có biết
Chinh chiến thân lưu đày?
(Bữa cơm ngoài chiến trường/1972)
Bài thơ đây hiện thực này không có trong tập thơ “Hát dạo bên trời”, nhưng có mặt trong tuyển tập “Thơ miền Nam trong thời chiến” do Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư sưu tập và phát hành ở Hải Ngoại. Và mới đây, đặc biệt được Nam Lộc, người điều khiển chương trình ca nhạc Asia, chọn đọc nguyên bài trong Video “Tình khúc từ chiến trường”, nói lên thân phận của người lính VNCH và ca ngợi những đóng góp của họ cho đất nước mà đã tùng bị lãng quên vì là những người thua cuộc. Hãy đọc tiếp vài đoạn trong một bài thơ chiến trường khác, cũng không có mặt trong “Hát dạo bên trời”:
Chiều Mai Lộc núi đồi điên loạn
Quân hai bên đánh đá mút mùa
thằng xấu số chết vì xấu số
bỏ vợ con đau xót quê nhà
Chiều Mai Lộc không mưa không nắng
lửa cháy trong hồn những kẻ đi xa
này anh lính nhỏ nhoi miền Bắc
giữa sương mù anh có nhận ra ta?
(Chiều Mai Lộc)
Bài thơ này, hiện thực không kém, hơi thở lại trào lộng, khiến cho nó mang một nét bi tráng riêng, nhắc ta nhớ đến một số bài thơ đầy mùi khói súng của Trần Hoài Thư hay bài “Qua sông” của Tô Thùy Yên.
Có lẽ do một số hoàn cảnh tế nhị, thơ lính không nhiều trong tập thơ “Hát Dạo Bên Trời”. Lữ có lẽ đã chọn bỏ đi nhiều bài, chỉ giữ lại một số rất ít bài thơ mang hơi hướm chiến tranh và đời lính trước 1975. “Thư gửi người ở lại” có lẽ là một trong những bài đầy “tâm trạng” của người-lính-bất-đắc-dĩ Trần Dzạ Lữ:
Em đừng hỏi trong rừng có gì lạ
Có gì đâu xương rã với hồn đau
Và khi không tháng giêng lên núi
Đời đày ta và thần thánh xa nhau
(...)
Em đừng hỏi trong rừng có gì lạ
Có gì đâu bia mộ dựng trong hồn
Bạn bè ta ưu tư ngả gục
Với rừng già rách nát thương tâm.
(...)
Em đừng hỏi trong rừng có gì lạ
Có gì đâu ta từ buổi lên đường
Hôn chưa kịp em – bây giờ hôn đất
Thay chiếu giường bằng hầm hố cô đơn
Em đừng hỏi trong rừng có gì lạ
Có gì đâu rừng rú điêu tàn
Nai lạc dấu – ngàn thương trăng cũ
Ta nhớ người tình quay quắt trong sương
Bài này làm năm 1971, là một trong những năm cao điểm nhất của cuộc chiến. Khác với mấy đoạn thơ trích ở trên, bài này có ngôn từ trau chuốt hơn, bóng bẩy hơn với nhiều ẩn dụ và tất nhiên, nghệ thuật hơn. Xương rã với hồn đau/bia mộ dựng trong hồn/quay quắt trong sương... Những cụm từ đọc lên nghe ngậm ngùi và nhói đau cho thân phận người lính. Nên không ngạc nhiên gì khi nghe lời van xin:
Ta chỉ xin một ngày
Hồn thôi in dấu đạn
Biển rộng cánh tình bay
Cho đời thôi mắc cạn...
(Thánh đọa)
“Mắc cạn”. Đúng là mắc cạn. Thời chúng tôi là thời của những người mắc cạn. Cả một thế hệ mắc cạn. Những người lính như Lữ lại càng mắc cạn. Tiến không xong, lùi cũng chẳng được. Cũng vẫy cũng vùng đấy, nhưng cũng chỉ để vẫy và vùng. Và khát khao. Và trông ngóng. Hơn bất cứ ai, người lính là người thiết tha nhất trông ngóng ngày tàn cuộc. Để có nước mà bơi. Để có tương lai mà mơ uớc.
Ngày tàn cuộc người về thăm quê quán
Đồng cỏ mừng đón vó ngựa hồng xưa.
... Giọt lệ mừng và tay vui vẫy gọi
Bếp lửa hồng nhúm lại buổi hoang sơ
... Có chị hồi sinh tuổi xưa rực rỡ
Phơi tóc chiều xuân bên giậu hoa vàng
... Để ta thắp tình ngợi ca Tôn Nữ
Nụ hôn nào thơm hương sứ hương sen?
Đường vào nội thành mùa xuân trải chiếu
Vó ngựa hồng, bếp lửa hồng, phơi tóc chiều xuân, mùa xuân trải chiếu... Chao ôi, một giấc mơ hoà bình thơm lừng hạnh phúc!
Khốn nỗi, hòa bình rồi, cái thế hệ vừa học trò vừa lính ấy ở miền Nam lại vẫn mắc cạn. Lần mắc cạn này dai dẳng hơn, dở khóc dở cười hơn, và có khi tàn nhẫn hơn. Thoát được “nỗi buồn chiến tranh”, Lữ - cũng như hàng triệu triệu người miền Nam - lại rơi vào “nỗi khổ hòa bình”. Là phía thất trận, chàng phải đi ở tù. Chàng trở thành công dân hạng hai, thành kẻ đứng ngoài. Không còn một cơ may nào trong xã hội mới, con đường duy nhất cho những người thất trận là đem hết sức bình sanh ra, bươn chải kiếm sống. Tất cả chỉ còn một mục đích duy nhất: sống còn. Cuộc chiến đấu để sống còn này, tuy rất âm thầm, nhưng không kém phần sinh tử. Hãy nghe Lữ nói về đạo quân tìm trầm thời xã hội chủ nghĩa:
Nói chung, đám tìm trầm
Vì đói cơm rách áo
người yêu coi như không
Vợ con là gió thoảng
... Đâu phải giò phong lan
Tim tím chiều mắt ngó?
Cũng không phải chùn chân
Trước núi rừng muông thú
Nhưng mà, cả binh đoàn
Đều rưng rưng nước mắt
... Dốc còn cao mong đợi
Tình còn sầu chơi vơi
Riêng ta thì em ơi
Nhớ miền Nam tha thiết
Sài Gòn em có biết
Nỗi đau của mưa rừng?
(Khi qua dốc Mạ Ơi ở Ba Lòng)
Nghe hao hao như Lữ đang tả cảnh chiến trường thuở nào thuở nao!
Tôi cũng đã từng là dân “ngậm ngải tìm trầm”. Cho nên đọc những giọng thơ này lòng thật vô cùng cảm khái và thấm thía. Nhân đây, tôi xin trích một đoạn ngắn trong phần kết bài “Ngậm ngải tìm trầm” của tôi như là một chia xẻ cùng nỗi gian nan của Lữ:
“Người xưa ngậm ngải tìm trầm. Ngày nay, tìm trầm không cần ngậm ngải nhưng không thiếu gian nan. Xưa cũng như nay, khi đói, người ta thường tìm rừng: môn, khoai, cây, trái... Thiên nhiên hào phóng, lúc nào cũng sẵn sàng dâng hiến của cải cho con người. Nhưng, con người tham lam, thô bạo. Rừng không còn thiêng, nước không còn độc. Núi rừng bây giờ toang hoác trước những đợt tiến công không thương tiếc của con người: bom, đạn, đào vàng, xẻ núi, đốn gỗ, lấy trầm... Riêng trầm hương, một loại cây quý hiếm của núi rừng Việt Nam, qua một thập niên bị đạo quân đói - hậu quả của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa - tấn công tàn phá, có lẽ đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Khoảng từ năm 1983 đến 1993 - mà cao điểm là những năm từ 1984 đến 1990 - đạo quân cả trăm ngàn người đó gần như có mặt suốt dãy Trường Sơn, từ Việt Bắc đến cao nguyên miền Trung, để tìm trầm: mọi cây trầm gần như bị chặt trụi. Chẳng rõ có được bao nhiêu cây thoát khỏi búa rìu của con người. Họa chăng chỉ còn những cây con. Có thể cả trăm năm sau, với điều kiện môi sinh được bảo vệ thật tốt, may ra rừng núi Việt Nam mới thấy lại được cây trầm. Dù sao, có cả triệu người sống qua được cái giai đoạn tàn khốc đó của lịch sử nhờ trầm: đó là những người miền Nam thất cơ lỡ vận, những người miền Bắc nghèo đói.
Xin cảm ơn trầm!
Và cũng xin ngậm ngùi thắp nén hương lòng cầu nguyện cho cây trầm được tái sinh ở núi rừng Việt Nam. Dù một trăm hay hai trăm năm nữa!”
(“Loanh quanh những nẻo đường”, ký và tùy bút, nxb Văn Mới, Cali, 1998)
(Kệ sách Học Xá)
Hồi còn ở Việt Nam, tôi có ghé thăm Lữ cùng với Hồ Minh Dũng. Gia đình anh ở trên một căn gác nhỏ, trong một con hẻm nằm trên đường Trương Minh Giảng, thuộc quận Phú Nhuận. Ngay phía dưới là một cái chợ nhỏ. Nhỏ nhưng khá tập nập. Hàng ngày hai vợ chồng ra bán rau ở đó. Chị bán, anh phụ. Nhà thơ và người đàn bà đã từng là “cô gái Sài Gòn” phơi phới ngày nào bây giờ ngồi giữa rau, giữa cải, giữa mùi tanh, giữa ruổi, giữa kiến, giữa những phùng mang trợn mắt, giữa những đốp chát, giữa những chèo kéo, giành giựt. Ở đó không có thơ mà chỉ có đời sống. Và đời sống thì vô danh. Lữ vô danh. Chúng tôi vô danh. Bên những cốc rượu đế, những kẻ vô danh chúng tôi tự tìm lấy nơi nhau một chút tình nghĩa cũ càng, lỗi nhịp. Chẳng đủ xóa đi được tí nào nỗi nhọc nhằn của cuộc mưu sinh, lại càng thêm ngậm ngùi cho thân thế những con người qua cuộc phế hưng. Nhưng dù sao cũng có chút âm ấm tình người. Dù chỉ là khoảnh khắc.
Căn gác trọ đi vào thơ anh:
Này gác lửng, hơn nửa đời rồi đó
Ta mới có mày giữa cuộc phù vân
Đời thử ta như lưa thư vàng
Cay đắng bủa quanh hồn xưa chao chớn
... Xin lỗi em cô gái Sài Gòn
Đã vì ta mà xa giảng đường, thư viện
Xa thời mộng-mơ-luu-luyến
Để hóa thành cổ tượng giữa trầm luân
Vì áo cơm mà em ra chợ
Một hồn buôn giữa cõi rau xanh
Ngày văng tục trên miệng người láu cá
Mà em thì líu lưỡi bởi không quen
Còn ta nữa, thằng làm thơ và lang thang
Cũng phải bơi theo dòng đời chóng mặt
Lầm lũi kiếm từng li vàng giữa trời cao đất thấp(...)
(Mùa Xuân trò chuyện với gác lửng)
Bài thơ này có hai chữ lạ: chao chớn. Chao chớn là chênh vênh, chao đảo, bất định? Hình như từ này cũng được Lữ dùng ở đâu đó trong một bài thơ khác. Cùng với “cố xứ”, “chao chớn” mang âm hưởng riêng của Lữ.
Bài “Ở chợ” nghe càng chua chát và ngậm ngùi hơn:
Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi buồn
... Ở chợ đông sao hồn cứ lạnh
Đốt thuốc hoài không ấm nửa chiều?
.... Ta bán rau xanh ngày mệt lử
Đêm còn ngồi đọc sách thánh hiền
Cố quên cơm áo – Vòng danh lợi
Sao đời nỡ hối thúc bên lưng?
Ôi, “nỗi buồn chiến tranh” và “nỗi khổ hòa bình”!
Dẫu sao, rốt cuộc, Lữ đã trở lại, có cơ hội trở lại với thế giới văn chương chữ nghĩa, điều mà rất nhiều và nhiều năm sau 1975, không ai dám nghĩ tới. Và “Hát dạo bên trời” đã ra đời. Nhìn ngày tháng ghi trên những bài thơ, tôi tò mò nhận thấy bài “Mùa xuân gửi thị trấn hoa vàng” đề năm 1975 (hẳn là trước tháng 4/75) và bài kế đó đề năm 1982. Nghĩa là có một quãng thời gian anh không làm thơ (?). Bảy năm. Một khoảng cách thời gian đầy ý nghĩa. Đó là khoảng thời gian mà xã hội miền Nam trải qua một cuộc xáo trộn khủng khiếp, người miền Nam quằn quại, vật vã chuyển đổi từ một dạng sống này đến một dạng sống khác. Đổi lốt. Đổi đời. Đổi còn là may. Phải nói là lật ngược đời!
Ấy thế mà cái lạ là thơ Lữ vẫn thế. Đọc hết tập thơ, ta nhận thấy Lữ trước và Lữ sau vẫn là một Lữ. Trong lời thơ. Trong hơi thơ. Trong hồn thơ. Trong chữ và nghĩa. Trong tấm lòng. Cung Tích Biền nhận xét: “Ba mươi năm, thơ vẫn giữ được một dung phong thuần nhất” (Lời tựa của tập “Hát Dạo Bên Trời”). Này nhé, hãy đọc một đoạn thơ của năm 1969:
Ngày tháng rụng đầy lòng tôi hiu hắt
Chiều cuối năm châm thuốc nhớ nhà
Rượu tha phương uống hoài chưa cạn chén
Buồn người đi đời lạnh bến sông xa
(Xuân tha phương)
Một đoạn khác vào năm 1991:
Tha phương hề, hiu hắt mười năm Vẫn thương hương bưởi ngái trong hồn Quê ơi, mùa rét qua trên tóc Ta vẫn mơ mòng đêm sáng trăng!
(Gửi người áo tím/1991)
Một đoạn vào năm 1971:
Chiều lên nốc rượu giải buồn
Rừng kia đứt ruột ta đờn đứt giây
Xa em nhớ tháng thương ngày
Ngó ra bè bạn một bầy cô đơn
(Chiều tôi)
Một đoạn khác vào năm 1995:
Ngồi đây, thương tiếng đàn tranh
Tay em mười ngón lùa quanh tình sầu
Lượng đời hao hụt nơi đâu
Chỉ còn nỗi nhớ Tô Châu ta về ...
(Ở quán cà phê Diên Vỹ)
Cũng đều là nỗi buồn chia cách. Lời thơ đơn giản. Hơi thơ nhẹ, êm. Nhịp điệu chậm rãi. Mấy chục năm trôi qua với bao nổi trôi, cay đắng, Lữ vẫn giữ một cách “hành thơ” riêng của mình, không cần cách tân, không cần khám phá, không cần kỹ thuật này kỹ thuật nọ gì gì hết. Không cần giả danh, theo đuôi. Không “thiền”, không “đạt đạo”, không “hư vô”, không khinh thế ngạo vật, ngạo người ngạo đời và ngạo mình. Lữ làm thơ với những gì sẵn có trong mình. Hiếm khi tìm thấy trong thơ Lữ những cặp từ Hán Việt phảng phất mùi triết lý thời thượng, làm dáng. Lữ làm thơ cứ như là làm cho mình đọc. Buồn thì nói là buồn. Vui thì nói là vui. Không giả vờ vui, giả vờ buồn. Một nỗi buồn hiền lành và chân thật. Và cụ thể.
Thương đứt ruột làng quê bản quán
Nhưng làm sao về lúc tay trắng công danh
- Tiếc công giữ mộng canh hình
Gương xưa đã vỡ sao lành được em;
- Ta, bao nhiêu năm mơ về với quê
Mà ngặt nỗi tình em theo lận đận
Mẹ vì ta, mỏi mòn nơi cố quận
Em vì chồng ngơ ngác một đường bay...
- Người về chân thọt, tình phai
Nương cau, vườn chuối ngọt bùi với ai?
- Mấy năm cháy chậm trong hồn
Nhớ nơi cắt rún lửa đun trong đầu.
Lữ làm nhiều loại thơ khác nhau: năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát. Hầu như không có một bài thơ tự do phá cách nào. Cũng đáng xem là lạ. Giai đoạn Lữ sáng tác mạnh nhất là 1965-1975 là giai đoạn ảnh hưởng của nhóm Sáng Tạo mạnh mẽ trên văn đàn miền Nam. Tờ báo Văn nơi thơ Lữ thường xuyên xuất hiện không thiếu loại thơ phá cách. Sau 1975, nhất là từ giai đoạn “đổi mới” (cỡ những năm 1985, 1986), thơ trong nước không thiếu loại thơ này. Ấy thế mà Lữ không chịu ảnh hưởng một tí nào. Anh cứ làm thơ theo cách riêng của anh. Vần điệu đầy đủ và chỉnh. Dù năm chữ, bảy chữ, tám chữ hay lục bát. Trong những bài lục-bát, anh vẫn theo nhịp 2/2 đều đặn:
Hồn xưa/vừa chín/ăn năn
Em đi/biển động/đã trăm/nỗi buồn
Tôi về/dáng thú/buồn hơn
Trong hang/mưa lạnh/lưng khom/sợi chiều
Lâu lâu ta thấy một cách ngắt nhịp hơi khác:
- Nhớ em ai lấp cho bù
Hồn tôi/ một dải đất/ mù mịt/ xưa
- Nghĩa là xa lắc thiên đường
Anh/ trăn trở ngóng/em/mường tượng mong...
Nói chung, những bài thơ thành công nhất của Lữ thường là những đoản khúc lục bát hay thơ tám chữ. Chẳng hạn như đoản khúc sau, tả về tâm trạng xao xuyến của người lính hành quân trên núi:
Lên đây vai nặng bước liều
Quanh co sông núi khói chiều tơ vương
Mùa xuân gối đất nằm sương
Tôi thân co lạnh với hồn cây thưa
Lên đây trời đất mập mờ
Trong tôi buồn thổi từng giờ tử sinh
(Ngày xuân ở Thường Đức)
Những bài tám chữ như “Thư gửi người ở lại”, “Ngày vẫy biệt khu rừng tuổi nhỏ”, “Gửi người xa xăm”, “Sao không nói” (bài này không có trong tập thơ “Hát dạo bên trời”) dài hoặc khá dài, là những bài hoàn chỉnh và lời thơ rất tha thiết. Nhiều hình ảnh, nhiều ví von đa dạng. Với tôi, cái “chất thơ Trần Dzạ Lữ” chân thật nhất thường tỏa ra nơi những bài thơ tám chữ đó. Hơi thơ lắng đọng, nhịp thơ miên man, lời thơ níu kéo nhau tạo nên nhiều cảm xúc.
Hãy thưởng thức và trích đoạn từ những bài thơ nói trên:
Sao không nói những khi đời au đỏ
Một còn đầy trong mắt của nhau xua
Để bây giờ người ra đi tám hướng
Cho kẻ về ngậm tủi bến sông mưa
... Sao không nói những khi tình còn mới
Trên tay yêu một thuở đẹp vô cùng
... Sao không nói những khi ta mời rượu
Uống cho nhau những cảm khái rất nồng
... Sao không nói những khi còn hơi ấm
Của Phượng phà vào chiếc cổ Loan xưa
Để bây giờ tiêu điều kia đã ngấm
Như nỗi buồn cứ lớn mãi trong thơ
(Sao không nói)
Chính nơi đó tóc em bay từng sợi
Cho ta thẦm yêu mây của trời cao
Tình rất dại nên tình chưa dám nói
Hồn tơ trời chưa buộc chỉ thương đau
(Ngày vẫy biệt khu rừng mơ tuổi nhỏ)
Rồi thuở xa người vầng trăng lặn mất
Đường ta đi suối lạ vắt ngang hồn
Nhánh cây đời không còn đơm trái nữa
Để khÓi ngàn bạt xuống cánh dơi mong
(Gửi người xa xăm)
Em đừng hỏi trong rừng có gì lạ
Có gì đâu rừng rú điêu tàn
Nai lạc dấu – ngàn thương trăng cũ
Ta nhớ người tình quay quắt trong sương
(Thư gửi người ở lại)
Cám ơn Lữ. Cám ơn nhà thơ. Những dòng thơ chân tình của Lữ đưa tôi sống lại những ngày tháng quê nhà yêu dấu. Một quê nhà rất đời thường, rất ngọt, rất đậm đà. Và cực kỳ đơn giản.
Điều tôi không thể nào tìm thấy bây giờ trong cuộc sống mới trên xứ người.
(Boston 5/2008)
- Tình bạn trong văn chương Trần Doãn Nho Phiếm luận
- Tưởng nhớ Phan Xuân Sinh Trần Doãn Nho Nhận định
- Một cái gì rất Nguyễn Xuân Hoàng: Sổ tay Trần Doãn Nho Nhận định
- ‘Nghiệp’ thơ của Trần Yên Hòa Trần Doãn Nho Nhận định
- Đọc Ngu Yên: Trải nghiệm học thuật về thơ Trần Doãn Nho Nhận định
- Tranh Tĩnh Vật Trần Doãn Nho Tạp bút
- Tháng Tư, nói chuyện tị nạn Trần Doãn Nho Tạp luận
- Một truyện rất Huế, ‘Thương Nhớ Hoàng Lan’ Trần Doãn Nho Giới thiệu
- Từ một tờ bìa báo cũ... Trần Doãn Nho Hồi ức
- Buổi trao giải văn học Phan Thanh Giản (15.8.2021) Trần Doãn Nho Tường thuật
• Trần Dzạ Lữ, Người lữ khách cô đơn trên sa mạc tình (Lương Thiếu Văn)
• Trần Dzạ Lữ và Hát Dạo Bên Trời (Trần Doãn Nho)
• Trần Dzạ Lữ, nhà thơ hát dạo bên trời (Nguyễn Vy Khanh)
Trần Dzạ Lữ và những dấu chân đời phiêu lãng… (Lương Thư Trung)
Trần Dzạ Lữ Gọi Tình Bên Sông (Trần Yên Hòa)
Trần Dzạ Lữ - Thơ Và Tôi (Nguyễn Kim Tiến)
Trần Dzạ Lữ – Ngôn ngữ Huế trong thi ca (Thu Thủy)
• Thị trấn Hoa Vàng – Quê Hương Thứ 2 của nhà thơ Hoàng Ngọc Châu (Trần Dzạ Lữ)
• Trang Thơ (Trần Dzạ Lữ)
Bài viết trên mạng:
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |