|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà văn Phạm Văn Nhàn
Tôi nhận được tập truyện “Màu Thời Gian” của Pham Văn Nhàn “qua tay” của N.L.U. Ngay trang đầu, cậu ấy viết: “Thay mặt tác giả ở chốn xa xôi, kính tăng anh chị…”. Nhận được sách, như gặp lại được bạn – người bạn văn đã hơn ba mươi năm lưu lạc xa cách; bây giờ đang ở bên tôi, trước mặt tôi…
Tôi nhìn tấm ảnh của Phạm Văn Nhàn ở trang 4 bìa sách – cảm thấy yên tâm, và một nỗi vui mừng vì sự khổ ải đã không làm anh thay đổi bao nhiêu! “Màu Thời Gian” gồm 8 truyện ngắn (và 5 bài viết về “Những người bạn tôi”). Tôi chọn truyện cuối – “Vẫn Những Mùa Xuân” viết về người em trai của PVN – thiếu úy Phạm Bảy, đã chết trước một tháng khi miền Nam sụp đổ; để đọc trước tiên.
Bằng giọng văn thuật chuyện rất tự nhiên, nhẹ nhàng, có chút bi hài, và “phớt tỉnh” – PVN. đã qua sự nhớ tưởng về cái chết của người em trai – và cũng là một chiến hữu; vẽ ra được toàn bộ thảm cảnh của chiến tranh, từ nhiều góc độ; từ bản thân, gia đình, bằng hữu, tình yêu, cuộc sống. Có thể nghĩ, “Vẫn Những Mùa Xuân” không nói đến súng đạn, chết chóc, hận thù, kêu gào (…) nhiều như vài tác giả đã viết về cuộc chiến trước 75; nhưng đã mô tả lại gần như rất đủ, những mảnh đời bi thương, biến động nội tâm – một cách rất thật, rất tỉnh, rất … thản nhiên! – “chiến tranh dai như đỉa đói, làm sao tránh khỏi hả mẹ”.
-… Bao nhiêu năm trong quân đội. Lội từ miền cao xuống đồng bằng, cuối cùng thì bị thương cưa chân. Nay nghe ông trung úy nói hiệp định ký, có hòa bình, tao chẳng biết đi về đâu sau cái tết này?“ (trang 90).
Cái tâm trạng chẳng biết “đi về đâu”, cuộc đời mình sẽ ra sao, như Tư , như Vân, như Bảy (…) trong cuộc chiến này- nhất là sau 1975 – là của cả một thế hệ – một lớp người được gọi tên là “kẻ chiến bại”. Hình ảnh của tương lai, của ngày mai, làm gì có trong chiến tranh –“Ai vậy mẹ? Bộ mẹ muốn người ta trở thành bà góa. Mẹ mang tội đấy” (trang 94) – đến cái hạnh phúc tưởng đơn giản nhất (và cũng cần thiết nhất) cho đời người là tình yêu, là một mái ấm gia đình, cũng là điều … ít ai dám nghĩ đến.
Và như người mẹ già gian truân, khổ ải vì đàn con của Bảy đã rất sợ khi mùa xuân đến (!): “Mùa xuân. Tự nhiên bà nghĩ tới mùa xuân, bà sợ…” – “ Bà đâm ra sợ mỗi lần xuân đến!” (trang 95). Nếu chiến tranh còn, sự hận thù còn – thì cuộc đời, mùa xuân “Vẫn những mùa xuân” ảm đạm, đau thương, vô vọng như thế!
Chiến tranh trong truyện PVN – dù là một người lính ngày đêm giáp mặt với những trận đánh, với súng đạn, chết chóc (…) ; nhưng đặc biệt tác giả ít nói đến chuyện ở chiến trường – có lẽ coi đó là một việc bình thường ; mà chỉ nói đến “phía sau”, đến thân phận, với nỗi ưu tư khắc khoải của cả một đời người.
Sự tàn phá nguy hại nhất của chiến tranh không chỉ ở những làng mạc, thành phố bị thiêu cháy, những tổn thất về vật chất ; mà là sự mất mát về con người – làm chai mòn tâm hồn, hủy diệt đời sống tâm linh ; sống trong nỗi bất an; bàng hoàng, vô vọng thường trực. Nỗi kinh hoang, đớn đau, chán chường này kéo dài, chưa biết đến bao giờ mới thực sự chấm dứt. Truyện PVN thường viết về những hoài niệm như một chút an ủi, một chút nhớ thương, một chút mơ mộng nuối tiếc… Với P.V.N dù là một nơi “Góc Phố Cũ” (tr.6) cũng đủ khơi dậy cả một quá khứ mù tăm dài dặc với bao biến động khi trở về: “Còn sống, nhưng không ai nhìn ra khi lão bước xuống xe lam đứng nơi góc phố cũ. Lão vừa đi chậm rải trên lề đường vừa suy nghĩ còn ai ở đây để tìm lại thăm” (tr.8); nhưng rồi “Thấy cái gì cũng lạ. Lạ lắm. Chỉ có những cánh rừng trước mặt lão là không thay đổi”. Và sau cùng, “Tự nhiên những giọt nước mắt của hai người lính già ứa ra trong cái lạnh hây hây của sương rừng!“.
Cho dầu thực tại là vậy. Là sự trống trải. Là sự bi thương. Nhưng diễm phúc và may mắn thay – người lính P.V.N. trong nỗi bất hạnh cùng cực ấy, đã luôn giữ được tâm tình trong sáng, an tịnh, để “Tìm Về” (tr.17) để cảm nhận, để thương yêu… Dù mô tả thực tại có phũ phàng đến đâu, PVN. không lớn giọng, không quá bi thương, mà luôn nhen nhuốm những tia sáng ấm áp, lạc quan – để “sống” thực cho mình. Thật thơ mộng, êm đềm với “buổi sáng im ắng nào đó đứng trên nóc lô cốt nhìn dòng sông sau những đêm thức trắng canh giữ chân cầu. Nhìn dòng nước chảy đục ngầu dưới cầu, hắn và những người lính của hắn biết là đêm qua trên thượng nguồn đã có cơn mưa núi”. (tr.18). Và với P.V.N “chiến tranh như bị hương thơm của những loài hoa trong vườn nhà Thạch xua đi, chỉ còn lại nỗi thanh bình trong những lối đi mòn qua những câu hát của người cùng đi trốn ngủ!” (tr.21) – Thật nhạy cảm và lãng mạn!
Sự ly tan trong gia đình người bác, người chị (Một Chút Ngậm Ngùi – tr.27) không phải là ít khi cuộc chiến kéo dài đến 21 năm – “Chiến tranh kỳ quặt, rõ ràng nồi da xáo thịt trong ngôi nhà của bác tôi”. Vợ chồng không dám nhìn nhau, cha con không dám nhận nhau – giữa hận thù vây bủa, phủ chụp lên thân phận con người… “Tại hắn hay tại ai? Hắn không đổ thừa cho một ai cả. Tại tai ách lòng trời mới ra nông nổi”. (Hương Xưa – tr.43). Đó chính là nét đặc thù bi đát nhất của cuộc chiến ở Việt Nam. Trong cuộc sống được tính từng ngày, trong nỗi gian nan kề cận cái chết, “Hắn” vẫn yêu, vẫn mơ mộng, vẫn hồn nhiên sống cho đời sống hiện tại của mình : Đó cũng là tâm trạng của lớp trẻ miền Nam. Đó là bản năng tồn tại của giới trí thức văn nghệ một thời đất nước chiến chinh, một thời quê hương đổi thay, điên đảo… Một chút gì của “Hương Xưa” (một bản nhạc, giọng hát, góc phố, con đường, chiếc mũ 6 múi, mùi hương hoa sứ, chiếc áo blouse trắng..) cũng là một gợi nhớ miên man, cũng là một niềm an ủi tuyệt vời; tuy rằng “hắn bấy giờ như cọng cỏ khô trôi bềnh bồng giữa dòng kênh nước đục” (tr.46)
Tính nhân văn trong truyện PVN thể hiện rõ nét trong tính cách, lối sống, nếp nghĩ của nhân vật. Nhân vật Mịch (trong Màu Thời Gian) đã vương lên từ nghèo khó, bằng chính sự rèn luyện, chịu đựng của mình ; nhưng khi đã đạt đến một tình trạng cao hơn ; luôn luôn nhìn lại, nhìn xuống cuộc đời, để xẻ chia, để cảm thông với tất cả – cho dù là một đứa bé. “Có gì đâu, xe chạy một đỗi thì chỗ ngồi cũng rộng thôi. Ông nghĩ như vậy, cho nên dù bị ngồi kẹp giữa những hành khách mà ông lại thấy vui, gần gũi bà con trong gang tấc” (tr.47). Và “Thời đó, biết bao nhiêu lần ông hành quân qua những xóm làng, cũng những đám ruộng đó, cũng nhữ ụ rơm đó, cũng những con trâu đứng nhìn ngơ ngác những toán lính đi qua. Xóm làng đối với ông nghe sao gần gũi. Như hôm nay cái háo hức như về lại với ông ngày nào….” (tr.49). Hình ảnh Mịch “vẫn ngồi bên lề đường, lặt từng hạt bắp luộc, nhai chậm rãi như níu kéo lại những con sóng thời gian đã trôi qua đời ông lặng lẽ…”. (tr.57).
Tôi đọc truyện PVN như để nhớ lại anh, tìm lại hình ảnh của anh, mà đã hơn 30 năm không được gặp lại, thiếu vắng tin tức. Tôi đã thực sự cảm thấy thích thú bởi qua 8 truyện ngắn trong “Màu Thời Gian”, truyện nào cũng có thấp thoáng bóng dáng, cuộc đời, tình cảm của anh được ghi lại một cách bình dị, chân thật- giống như con người của anh đời thường. Qua “Màu Thời Gian” tôi biết rõ thêm một cách sâu đậm về Phạm Văn Nhàn – một người bạn văn mà tôi quý mến. Thêm nữa điều khiến tôi đọc “Màu Thời Gian” “một hơi” không nghỉ là sự gần gũi, sự thiết thân của từng nhân vật với cuộc sống của mình. Tôi cảm nhận “Màu Thời Gian” cả sau, và ngoài những trang viết, bởi vì nó rất giống mình!
“Màu Thời Gian” có đổi thay, có biến động, có là “màu gì” đi nữa – thì đó cũng chính là cuộc đời của PVN , của tôi, của lớp trẻ miền Nam… Phải cần được chia xẻ, cảm thông và trân quý ! Qua “Màu Thời Gian”, tôi nghĩ – PVN đã tâm sự với chúng ta rất nhiều điều (…)
Quê nhà, tháng 10-2005
- Đọc Tập Thơ Chép Tay Của Nhà Thơ Nguyễn Như Mây Mang Viên Long Nhận định
- Tâm Sự Cùng Phạm Văn Nhàn Qua “Màu Thời Gian” Mang Viên Long Nhận định
- Khởi Hành, Những Năm tháng Tuổi Trẻ Không Quên... Mang Viên Long Tạp bút
- Ngày Về Đà Lạt của Chu Trầm Nguyên Minh... Mang Viên Long Bình luận
• Phạm Văn Nhàn: Những Hiển Lộ Từ Miền Ký Ức (Nguyễn Lệ Uyên)
• Phạm Văn Nhàn (Học Xá)
• Tâm Sự Cùng Phạm Văn Nhàn Qua “Màu Thời Gian” (Mang Viên Long)
Nét nhân bản trong 'Vùng Đồi' của Phạm Văn Nhàn (Trần Doãn Nho)
Vài ghi nhận trong truyện & ký của Phạm Văn Nhàn (Lương Thư Trung)
Màu Thời Gian & Phạm Văn Nhàn (Thu Hương)
• Một Vài Ý Nghĩ (Phạm Văn Nhàn)
• Vùng Đồi (Phạm Văn Nhàn)
• Nguyễn Dương Quang, Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình (Phạm Văn Nhàn)
• Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển của Cái Trọng Ty (Phạm Văn Nhàn)
• Về một tập thơ được tái bản sau 54 năm
Hoàng Ngọc Hiển Vẫn Còn Nguyên trong tâm Thức Của Người Lính
Đọc: Tưởng Chừng Đã Quên của Nguyên Minh
Lãm Thuý Với Những Nỗi Ngậm Ngùi Còn Nguyên
Một chuyến đi trăm lần vui vạn lần buồn
Tập truyện: Màu thời gian, Vùng Đồi
Tạp luận: 21 khuôn mặt văn nghệ miền Nam
Truyện đọc: Vùng Đồi, Một Chút Ngậm Ngùi, Hương Xưa
Bài viết trên mạng:
phamcaohoang.blog, vanchuongviet.org
• Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)
• Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |