1. Head_

    Nguyễn Siên

    (..1916 - 30.10.2014)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Nguyễn Tất Nhiên – Một trường thiên kịch bản bi ai (Đỗ Trường) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      19-3-2019 | VĂN HỌC

      Nguyễn Tất Nhiên – Một trường thiên kịch bản bi ai

        ĐỖ TRƯỜNG
      Share File.php Share File
          

       


          Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên
      (1952 - 1992)

      Khi ngôi sao mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, khoảng trống để lại tưởng như khó có thể bù lấp, thì may mắn thay, trên vòm trời thi ca xuất hiện một Nguyễn Tất Nhiên. Tuy còn tuổi học trò, và khác nhau về thi pháp sáng tạo, nhưng có thể nói, Nguyễn Nho Sa Mạc và Nguyễn Tất Nhiên là hai thi sĩ đích thực. Sự xuất hiện của họ góp phần làm dịu mát, và giải tỏa sự bế tắc của văn thơ, cũng như âm nhạc miền Nam trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc.


      Đọc và đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952 tại Biên Hòa. Ông là hiện tượng rất đặc biệt của văn học miền Nam. Cái đặc biệt ấy, không chỉ ở tài năng chín sớm, mà ta còn thấy rõ ý tưởng, cũng như hình tượng và ngôn ngữ mới lạ trong thơ Nguyễn Tất Nhiên.


      Thật vậy, 14 tuổi (năm 1966) cùng với Đinh Thiên Phương, cậu học trò Nguyễn Hoàng Hải với bút danh Hoài Thi Yên Thi đã cho xuất bản tập thơ đầu tay Nàng Thơ Trong Mắt. Năm 16 tuổi, Hoài Thi Yên Thi in chung tập thơ thứ hai Dấu Mưa Qua Đất cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình. Và sau khi đổi bút danh thành Nguyễn Tất Nhiên, ông cho xuất bản Thiên Tai vào năm 1970. Thi tập này là thẻ thông hành, đã đưa Nguyễn Tất Nhiên thẳng vào làng văn. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Dù lúc đó ông vẫn còn ngồi trên ghế trung học Ngô Quyền, Biên Hòa. Ngay sau đó, một loạt thi phẩm của Nguyễn Tất Nhiên được các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy phổ nhạc, tên tuổi ông càng đóng đinh vào lòng người đọc nhiều hơn, nhất là giới sinh viên, học sinh. Năm 1978, Nguyễn Tất Nhiên vượt biên, và tị nạn tại Pháp. Và ở đó, nhà xuất bản Nam Á đã ấn hành thi tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” vào năm 1980. Khi đến định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Nhiên cho in ấn và phát hành Chuông Mơ (1987) Tâm Dung (1989) cùng thi tập Minh Khúc. Đặc biệt tập nhạc Những Năm Tình Lận Đận của ông sáng tác từ khi còn ở trong nước cho đến ra hải ngoại, do nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ ấn hành, vào năm 1984. Nếu đọc, và nghiên cứu đầy đủ, ta có thể thấy, ba khía cạnh chính làm nên chân dung nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên: Tình yêu, ý tưởng và những hình tượng trong thơ, cũng như chiến tranh, sự phân ly tác động đến tư tưởng, cùng cuộc sống bế tắc với nỗi đau tuyệt vọng của ông.


      Năm 1992, bước vào tuổi bốn mươi, có lẽ trái tim mong manh, dễ vỡ của người nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên, không vượt qua được cái bế tắc của cuộc sống, cũng như tâm hồn, nên ông đã tự kết thúc cuộc đời mình. Sự ra đi đang ở độ chín, và sung sức nhất của Nguyễn Tất Nhiên, làm cho rất nhiều người ngơ ngác và tiếc nuối. Và khoảng trống ông để lại không hề nhỏ, suốt mấy chục năm qua, chưa người (thi sĩ học trò) nào có thể thay thế, bù lấp.


      Tình yêu, ý tưởng và hình tượng mới lạ trong thơ


      Tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc ông, làm tôi nhớ đến thi sĩ Đinh Hùng. Bởi, cái chất cuồng nhiệt đến tận cùng, với những hành động mà người đời cho là điên điên khùng khùng, tỉnh tỉnh say say ấy trong tình yêu của hai thi sĩ quyện chặt vào nhau đến vậy. Không rõ, Nguyễn Tất Nhiên có đọc, hoặc chịu ảnh hưởng tí ti nào từ Đinh Hùng hay không? Bởi, khi đọc ông sự ám ảnh cứ vẩn vơ đeo bám tôi, y như đọc thơ Đinh Hùng vậy. Tuy nhiên, một chừng mực nào đó, tôi nghĩ, Nguyễn Tất Nhiên có chịu ảnh hưởng ý tưởng, xây dựng hình tượng từ Du Tử Lê, ở một số bài viết vào khoảng năm 1970- 1971. Ta có thể thấy, cùng viết nỗi đau của tình yêu: “Tình yêu như dao nhọn/ Anh đâm mình, lút cán” và “Về như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm” hai hình tượng so sánh trong Khúc Thụy Du của Du Tử Lê, và Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên khá tương đồng. Và tất nhiên, Khúc Thụy Du đã ra đời sớm hơn Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên hai năm.


      Cái Tôi, cái nghệ thuật vị nghệ thuật là nền tảng, xương sống để làm nên khung thơ Nguyễn Tất Nhiên. Mỗi bài thơ được vắt ra từ cảm xúc của những mối tình đơn độc, nghiệt ngã trong ông. Và thủ thuật đưa tên tuổi thật của người yêu vào thơ, để gõ vào tâm lý (tò mò) của người đọc, nhằm đào sâu vào giá trị chân thực. Tuy nhiên, thủ pháp này, không phải là mới. Bởi, trước Nguyễn Tất Nhiên có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng hay Du Tử Lê… đã sử dụng nghệ thuật này. Nhưng ở lứa tuổi học trò dám sử dụng, và sử dụng hay như Nguyễn Tất Nhiên, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Do những đặc tính trên, nên những bài thơ này, thường có sức sống rất lâu dài. Hoặc trở thành những giai thoại, hay câu chuyện tình sử để lại cho hậu thế:

      “…nếu vì em mà ta phải điên tình

      cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

      thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối

      tay tre khô mối mọt ăn luồn

      dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương

      khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!

      em chẳng bao giờ rung động cũ

      ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu…”

      (Duyên của tình ta con gái Bắc)

      Thơ và tình yêu, hai thứ đam mê, cuồng nhiệt nhất đối với Nguyễn Tất Nhiên. Thất bại tình yêu đầu đời như một nhát dao chém tâm hồn ông. Để rồi, mang theo những vết thương bốn mùa luôn mưng mủ ấy, cùng nỗi thất vọng và cô đơn, Nguyễn Tất Nhiên cuộn mình vào trong thơ. Và tưởng chừng thơ ca sẽ làm giảm bớt nỗi đau, giải thoát linh hồn người thi sĩ. Nhưng không phải vậy, bởi cái thất vọng ấy, nỗi đau ấy ủ trong thơ còn nhức nhối, và day dứt hơn sức chịu đựng của con người. Chỗ Tôi, là một bài thơ đã bật ra từ cái ung ủ như vậy của Nguyễn Tất Nhiên. Xét về nghệ thuật, đây là một bài thơ dở của ông, nhưng đọc, ta thấy được sự đắng cay, ê chề, như một lời tự thú của thi nhân vậy:

      “Tôi có chỉ cho gia đình

      Người tôi yêu

      Là một nàng con gái Bắc

      Mẹ tôi hai lần nhìn

      Dáng em đi

      Và nói nó còn nhỏ dại

      Không hiểu nó thương mày chỗ nào

      Tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ

      Tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim

      Vì hiểu rằng

      Muôn đời

      Em vẫn ngó tôi nửa mắt

      Có gì đâu

      Thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!”

      Cũng như Lục bát, thơ Ngũ ngôn rất dễ làm, song khó hay. Bởi, từ thơ đến vè có khoảng cách rất gần, nếu nhà thơ không thực tài. Tuy nhiên, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Nguyễn Tất Nhiên thường thuộc về thể thơ này. Ngũ ngôn thơ Nguyễn Tất Nhiên hay, không phải chỉ ở tài năng sử dụng từ ngữ, mà còn ở sự hình tượng hóa, cũng như ý tưởng mới lạ. Nhìn lại văn học sử, dường như chưa ai dám cả gan đưa những hình tượng thánh thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh với những cái được cho là kỵ húy như Nguyễn Tất Nhiên. Sự so sánh, tưởng chừng như bất nhã ấy, nhưng thật kỳ lạ, hình ảnh trong thơ Nguyễn Tất Nhiên hiện lên rất độc đáo và tinh tế, đẹp một cách trong sáng và hồn nhiên. Và Ma Soeur là một trong những bài thơ như vậy. Vâng, dù bao nhiêu hạt mưa rơi cũng chưa đủ, chưa thấm bằng tình của người thi sĩ rụng xuống linh hồn thánh thiện ấy: “vai em tròn dưới mưa/ ướt bao nhiêu cũng vừa/ cũng chưa hơn tình rụng/ thấm linh hồn ma-sơ.” Một hình tượng so sánh ẩn dụ, dường như, thi nhân muốn khỏa lấp nỗi đắng cay, bất lực, cùng thủ thuật nhân cách hóa, (hay tưởng tượng) để tự ru hồn mình vậy. Đây là bài thơ rất hay của Nguyễn Tất Nhiên. Và Phạm Duy phổ thành ca khúc: Em hiền như Ma Soeur, được nhiều người ưa thích từ gần nửa thế kỷ qua:

      “…em hiền như ma-sơ


      vết thương ta bốn mùa

      trái tim ta làm mủ

      ma-sơ này ma-sơ

      có dịu dàng ánh mắt

      có êm đềm cánh môi

      ru ta người bệnh hoạn

      ru ta suốt cuộc đời


      cuộc đời tên vô đạo

      vết thương hành liệt tim!…”

      Có thể nói, Nguyễn Tất Nhiên là nhà thơ giàu trí tưởng tượng. Tài năng sáng tạo từ mới, cụm từ mới để tạo nên những hình tượng độc đáo, táo bạo gây sửng sốt, thú vị cho người đọc, xuất hiện ngay từ ngày đầu cầm bút của ông. Nếu ở bài Ma Soeur, Nguyễn Tất Nhiên đã dùng thủ pháp so sánh hình tượng hóa sự thánh thiện của người tình, thì đến với Linh Mục, ông hóa thân cho chính mình, để tìm dĩ vãng, đi đến tận cùng sự thật của cái địa ngục tình yêu ấy: “Vì tôi là linh mục/ giảng lời tình nhân gian/…tín đồ là người tình/ người tình là ác quỷ/ ác quỷ là quyền năng.” Thật vậy, những cụm từ so sánh ẩn dụ cũ kỹ và dân dã này, đã được thi sĩ đặt đúng văn cảnh trong cái ý tưởng độc đáo của mình, nó trở thành nghĩa mới, hình tượng mới. Bởi vậy, nó gây cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang chuyển thành ca khúc Vì Tôi Là Linh Mục, được mọi tầng lớp đón nhận, yêu thích, nhất là giới trẻ. Đây là một trong những đặc tính làm nên hồn thơ đặc trưng riêng Nguyễn Tất Nhiên. Đặc tính này xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:

      “dĩ vãng là địa ngục

      giam hãm đời muôn năm

      tôi – người yêu dĩ vãng

      nên sống gần Satan

      ngày kia nghe lời quỉ

      giáng thế thêm một lần

      trong kiếp người linh mục

      xao gầy cơn điên trăng!

      vì tôi là linh mục

      giảng lời tình nhân gian

      nên không có thánh kinh

      nên không có bổn đạo

      nên không có giáo đường

      một tín đồ duy nhất

      vừa thiêu huỷ lầu chuông!…”

      Tôi không cân đong, đo đếm kỹ lắm, nhưng dường như thơ Nguyễn Tất Nhiên nằm trong Top được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay? Bởi, ngoài ngôn ngữ giầu nhạc tính, thanh âm, thì ý tưởng mới lạ trong thơ của ông tạo ra rất nhiều cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tạo. Và cái ý tưởng ấy, như một luồng gió mới thổi vào cái không khí âm nhạc thời chiến lúc đó. Thật vậy, một loạt các ca khúc của Phạm Duy ra đời từ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Đặc biệt có ca khúc Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Phạm Duy đã mượn ý tưởng bài thơ Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ và cảm hứng từ Đám Đông để viết nên. Có thể nói, đây là bài thơ điển hình về tài năng trí tuệ liên tưởng của Nguyễn Tất Nhiên, đã giúp cho Phạm Duy chuyển thành một ca khúc hay đến vậy. Và hơn thế nữa, với tài năng của mình, Phạm Duy vẫn giữ nguyên được sự nhẹ nhàng, tính vui nhộn cùng từ ngữ mộc mạc của bài thơ: “cô Bắc Kỳ nho nhỏ/ tóc “demi-garçon”/ chiều đạp xe vô chợ/ mắt như trời bao dung/ đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/ tà đạo khó nương thân/…qua giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/ Chúa cười rung thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng!” Vẫn mang tâm trạng oán trách buồn đau, khắc khoải của Hai Năm Tình Lận Đận, do Phạm Duy phổ nhạc, Anh Bằng đã đưa bài lục bát Trúc Đào vào âm nhạc mượt mà, và nhẹ nhàng hơn. Song nó vẫn giữ nguyên được hồn vía của bài thơ. Với tôi, Trúc Đào là một bài thơ hay nhất ở thể lụt bát của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ hay về nội dung tư tưởng, mà có lời thơ rất mượt mà: “Chiều xưa có ngọn trúc đào/ Mùa thu lá rụng bay vào sân em…”. Tuy nhiên, Khúc Tình Buồn được Phạm Duy phổ nhạc với lời tựa Thà Như Giọt Mưa, cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Khúc Tình Buồn thuộc thể tứ ngôn, là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Bài thơ, ông viết khi đang là học sinh năm cuối trung học. Vẫn thủ pháp so sánh ẩn dụ, Nguyễn Tất Nhiên đã mượn hiện tượng của tự nhiên giãi bày nỗi lòng đớn đau, sự bất lực của kẻ si tình, của một tình yêu đơn phương: “thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không.” Để rồi, từ trong nỗi bất lực, và tình si ấy, người đọc mới chợt nhận ra, cái giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu của tình yêu. Tuy nhiên, bác nào đang bị tình phụ, hay tình đơn phương, tim mạch yếu kém, thì chớ nên đọc bài thơ này:

      “người từ trăm năm

      về qua sông rộng

      ta ngoắc mòn tay

      trùng trùng gió lộng


      người từ trăm năm

      về khơi tình động

      ta chạy vòng vòng

      ta chạy mòn chân”

      Nếu trước đó, văn học sử Việt không có những thi sĩ thiếu niên Chế Lan Viên với Điêu Tàn, Tế Hanh với Nghẹn Ngào, hay Nguyễn Nho Sa Mạc với Vàng Lạnh, thì có lẽ không ai tin thi phẩm Thiên Tai là do người học trò trung học Nguyễn Tất Nhiên viết ra. Bởi, sự già dặn của bút pháp cũng như tư tưởng, với những câu thơ được ủ chín tâm hồn thi nhân. Tôi không biết chính xác, bài thơ Oanh được Nguyễn Tất Nhiên viết từ khi nào. Nhưng chắc chắn, nó được viết trước tập Thiên Tai, lúc đó ông đang học lớp 10 hoặc lớp 11. Một bài thơ già dặn, và lời thơ tuyệt đẹp: “Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió/ Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài/ Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ/ Chàng đưa tình về, xót ngọn cỏ may.” Bài Thiên Thu viết năm Nguyễn Tất Nhiên 18 tuổi. Với bài thơ này, Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi cùng mâm nhấc lên đặt xuống với các cụ Đinh Hùng, Bùi Giáng… Du Tử Lê rồi. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc nó, tôi bị ám ảnh, mộng mị hết mấy đêm liền. Cả bài thơ là một câu hỏi tu từ. Không một lời giải đáp, buộc Nguyễn Tất Nhiên lìa hồn mình ra khỏi của cái thế giới hiện thực. Ông co giò chạy trốn quá khứ. Nhưng chạy đâu cũng thấy “chạy vòng vòng” đang “chạy mòn chân” rồi quay về với cái hiện hữu của chính mình. Vâng, đó cũng như một trường thiên kịch bản bi ai, vận vào chính cuộc sống cũng như tâm hồn Nguyễn Tất Nhiên vậy: “…sao thiên thu không là thiên thu?/ nên những người yêu là những ngôi mồ/ tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành quên khổ đau!”


      Đang định viết lời kết cho giai đoạn này, cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thành công rất sớm của Nguyễn Tất Nhiên, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện. Hôm rồi, tân gia nhà một người bạn, trong lúc khật khừ, tôi buột miệng nói với một bác nhà thơ cộng đồng đến từ Berlin: Với tôi, kể từ sau 1954 đến nay (2019) văn học Việt Nam ở tuổi học trò, có hai thi sĩ tài năng nhất. Đó là Nguyễn Nho Sa Mạc, người xứ Quảng, với tập thơ Vàng Lạnh, và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên người xứ Nam, với tập thơ Thiên Tai. Bác nhà thơ này, goặc lại tôi: Ông nói thế chó nào ấy chứ, xứ Bắc có không ít các thần đồng thơ, chả lẽ không đáng nói đến sao. Tôi bảo bác ấy: Đây là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, có thể là sai. Nhưng ta có thể thấy, trong giai đoạn đó ở miền Bắc cũng xuất những tài năng thi phú trẻ, và được gắn mác mỏ thần đồng như: Hoàng Hiếu Nhân, hay Trần Đăng Khoa… Tuy nhiên, các thần đồng thi ca này, được các nhà thơ tên tuổi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Nhuận Minh… chăm sóc, định hướng tư tưởng rất kỹ càng. Do vậy, có những câu thơ của họ đọc lên cứ tưởng của Diệu, của Chế, của Minh. Hơn nữa, mấy “thần đồng” này chỉ làm được thơ thiếu niên, nhi đồng. Sau này, Hoàng Hiếu Nhân bị tịt ngòi không viết lách được nữa. Còn Trần Đăng Khoa viết lay lắt, với những dấu ấn mờ nhạt. Thành thật mà nói, nếu ngoa ngôn dùng danh từ thần đồng để đo lường tài năng thi phú, thì với tôi, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến nay, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Đó là cậu bé thần đồng Chế Lan Viên với thi tập Điêu Tàn. Một tập thơ vừa ra đời đã trở thành cổ thi.


      Kinh hơn nữa, thời gian gần đây chẳng hiểu ăn phải cái bả gì, mà ông Giáo sư Phong Lê, ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam “cựu thần đồng” Trần Đăng Khoa cùng một số nhà thơ, nhân vật tên tuổi phát động cuộc thi “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du”. Một việc làm hoặc ấu trĩ, hoặc của chùa cùng nhau chia oản. Quả thực, xa Việt Nam đến quá nửa đời người, vậy mà nghe cái từ phát động, với phong trào tôi sởn hết cả người.


      Nghệ thuật Lục bát, tài năng thi phú của cụ Nguyễn Du đã được khẳng định từ mấy trăm năm qua cùng với Kiều Truyện. Không còn bàn cãi. Tuy nhiên, hồn vía của tác phẩm này thuộc về anh ba Tàu phương bắc. Do vậy, với tôi những tác phẩm Việt thuần chủng (Việt tính) đi vào lòng người hơn, từ mấy trăm năm qua phải là: Đặng Trần Côn với Chinh Phụ Ngâm, hay Nguyễn Gia Thiều với Cung Oán Ngâm Khúc.


      Dài dòng một chút về vấn đề này để cho thấy, miền Bắc không phải, không có những tài năng trẻ, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng với sự dẫn dắt, tư tưởng đến nay vẫn còn như thế này, thì tài năng nào không thui chột, hoặc biến dạng mới là chuyện lạ. Cũng may, Nguyễn Tất Nhiên sinh trưởng ở miền Nam, bằng không cũng mất hút con mẹ hàng lươn như “thần đồng thơ” Hoàng Hiếu Nhân trên thi đàn là cái chắc.


      Chiến tranh, cùng nỗi thống khổ sau cuộc chiến


      Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn tang thương nhất của đất nước, tuy không phải là người lính, song Nguyễn Tất Nhiên cũng không thể bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Tuy nhiên, cứ tưởng, thơ văn thi phú của ông chỉ ngắc ngư với giăng hoa, ong bướm, Oanh, Duyên, Minh Thủy. Nhưng tôi đã lầm. Mảng viết về thế sự, xã hội tình người của Nguyễn Tất Nhiên không hề nhỏ. Viết về chiến tranh, dường như bút pháp, cũng như nội dung hiện thực ông đào sâu vào khía cạnh rất khác so với các thi sĩ cùng thời. Bởi, đọc ông, tôi không hề thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, vậy mà khói lửa, chết chóc thương đau trải dài trên trang thơ của ông. Thật vậy, vừa rời ghế nhà trường, (19 tuổi) Nguyễn Tất Nhiên đã viết “Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc”. Một bài thơ, không chỉ người lính, hoặc những người trải qua chiến tranh, mà tôi, kẻ chưa hề biết đến súng đạn, vậy mà ngồi đọc, và viết cũng phải rưng rưng:

      “…Chiều quân đội nghĩa trang

      Chiều mệnh danh tổ quốc

      Có muôn ngàn câu kinh

      Có muôn ngàn tiếng khóc


      Có chuyến xe nhà binh

      Đưa “Thiên Thần” xuống đất

      Còn ai, còn ai chăng?…”

      Có thể nói, từ thơ tình đến thơ thế sự của Nguyễn Tất Nhiên bài nào cũng vậy, rất nhẹ nhàng, không hề lên gân, song đã gieo vào lòng người đọc nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, thân phận người lính càng bi đát hơn. Sự kiên cường của họ trước sự hèn nhát, tháo chạy của những cấp lãnh đạo cao nhất, làm cho Nguyễn Tất Nhiên xúc động: “Về trên nạng gỗ mà trông/ Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào.” Thật vậy, sự đồng cảm đối người lính trong thơ ông, không chỉ trong chiến tranh, mà ngay sau cuộc chiến, ta càng thấy đậm nét hơn. Chiến tranh qua đi, nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn của người lính thương phế binh, và những hệ lụy cho gia đình, cháu con còn bi thương, rách nát hơn gấp nhiều lần. Về Trên Lạng Gỗ là một bài thơ như vậy. Nó là một trong những bài thơ thế sự hay nhất, từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc. Tính hiện thực như một bản cáo trạng đối với chế độ xã hội đương thời của nhà thơ, cùng lời cảm thông sâu sắc, xoa dịu nỗi đau của con người. Đọc xong bài thơ này, tôi không còn biết đây là thơ, hay là lời ru nỗi đau của Nguyễn Tất Nhiên. Các bạn đọc lại đoạn trích dưới đây, xem có cảm giác như tôi không:

      “…Về trên nạng gỗ mà trông

      Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân

      Con thơ nhục nhã đến trường

      Ê a phỉ báng máu xương cha mình

      Cha “lính nguỵ” – con tự nhiên

      Thành phần không được ngóc lên làm người

      Học vừa đủ biết đọc thôi

      Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai


      Hãy cười đi phế binh ơi

      Một tay cũng rán mà… moi củ mì


      Từ đây dỗ đói thường khi

      Ru con tôi hát não nề ca dao”

      Cái đau của người thi sĩ là ru được người chứ không thể ru được chính mình, tâm hồn mình. Do vậy, trong cái bi đát đó, Nguyễn Tất Nhiên buộc phải trốn chạy, hay tìm đến: “Ta mời ta viếng mộ/ Lìa thảm cảnh dương gian.” Và cầu Nại Hà cũng đã bị gãy nhịp, người thi sĩ quay về nơi địa ngục. Không nghe lời sám hối, mà vọng lên tiếng kêu than thỉnh cầu của thi nhân: “Phải sống nơi địa ngục/ Mới hiểu thấu thân ta.” Dường như không có lời đáp vọng lại. Bởi, sự bất lực, hấp hối tro tàn ấy, đâu chỉ riêng thi sĩ:

      “…Ta mời ta viếng mộ

      Lìa thảm cảnh dương gian


      Chúc Phật còn lui chân

      Trước bạo quyền chế độ

      Huống hồ chút hư danh

      Nguyễn Tất Nhiên thống khổ


      Ôi chữ nghĩa văn chương

      Bất lực, càng bất lực


      Phải sống nơi địa ngục

      Mới hiểu thấu thân ta


      Đôi mắt người ngây thơ

      Không hề vương vấn tội

      Có chở tình ta theo

      Tới cõi nào diệu vợi?


      Lửa đời ta đã lụn

      Đang hấp hối tro tàn”

      (Tháng 11, Thơ Mưa)

      Thành thật mà nói, chỉ khi đi sâu vào đọc, tôi mới nhận ra thơ văn Nguyễn Tất Nhiên luôn gắn liền với xã hội và đời sống của con người. Thơ của ông có tính thời sự cao. Tôi nghĩ, mảng đề tài này góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp sáng tạo của ông. Nhưng dường như, bấy lâu nay chúng ta đã quên hẳn nó. Do vậy, văn học sử Việt Nam rất cần những nhà nghiên cứu khai quật, đánh giá cho thật đầy đủ, và khách quan về thơ văn Nguyễn Tất Nhiên.


      Chia ly, với cuộc sống bế tắc, cùng những nỗi đau tuyệt vọng.


      Ra đi là con đường duy nhất để giải thoát Nguyễn Tất Nhiên ra khỏi nơi địa ngục. Con thuyền lá tre kia vừa cập bến tự do, thì linh hồn ông đã chết ngay khi đặt chân lên miền đất lạ: “kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành/ nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất.” Những mâu thuẫn nội tâm, và bi kịch của người thi sĩ bắt đầu từ đó. Để rồi, cuộc sống và thi ca Nguyễn Tất Nhiên luẩn quẩn trong cái vòng tròn định mệnh ấy. Có thể nói, đây là tâm lý chung của tất cả các văn nghệ sỹ trốn chạy sau biến cố 1975, chứ không riêng Nguyễn Tất Nhiên. Tuy nhiên, sự hòa nhập, nghị lực và khát vọng tự do, khát vọng sống của mỗi con người khác nhau. Bài thơ Paris, Khúc Tháng Chín được Nguyễn Tất Nhiên viết trong tâm trạng, và hoàn cảnh như vậy. Đây là bài thơ hay, một lần nữa chứng minh cho ta thấy, sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú của ông:

      “…kẻ leo rào đã chụp được Tự Do

      nhưng tức thời buông tay bổ ngửa

      là ta


      phải, ta đánh rơi ta

      nát vụn

      sau khi đánh rơi Việt Nam

      bên kia bờ biển mịt


      cây cối sẽ phục sinh vào đầu tháng tư năm tới

      phần ta

      cách gì tươi tắn lại

      khi đời đã sang thu

      cộng với lần bứng gốc…”

      Những năm tháng ly hương, cuộc sống Nguyễn Tất Nhiên, dường như hồn đã lìa khỏi thân xác. Với ông, đó là những nỗi đau và cô đơn không có thể bù lấp: “Quê hương đã lìa/ Người tình đã xa/ Bạn bè đã tàn/ Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh”. Do vậy, với tâm hồn, nghị lực mong manh yếu đuối luôn làm cho người thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên chán nản bi ai: “Có lẽ em không hay/ Đôi cánh chàng đã gãy.” Tuy vậy, cùng nỗi nhớ thường trực, trái tim mẫn cảm của người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương, đất nước. Nhớ Nội, là một bài thơ thất ngôn như vậy. Một bài thơ hay và cảm động, tiêu biểu cho tâm trạng của Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này:

      “…từ lúc giặc về, con biệt xứ

      nát lòng chim quốc nhớ quê hương

      mấy thu vàng úa đời xa cội

      chẳng biết mộ phần nội có yên?”

      Bi kịch gia đình, bi kịch xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, và thi pháp sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên. Đây là giai đoạn nặng nề, cùng cực, cô đơn nhất của ông. Do vậy, những bi ai, u uất đã trải dài từ thi tập Tâm Khúc cho đến Minh Khúc. Sự chia ly, đổ vỡ của tình yêu và gia đình “…như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm” tan nát trái tim Nguyễn Tất Nhiên. Ông bất lực trong nỗi bơ vơ, và trống trải: “bây giờ em đã xa tôi/ hay là sông núi xa đời lãng du…chim đêm hót tiếng đau tình/ đau tim tôi chở lòng thành kiếm em…” Giai đoạn này, dường như ông hòa toàn quay về với thể thơ lục bát. Những câu thơ của ông đọc lên như có tiếng ru đời và ru mình vậy. Vâng, hai tập thơ lục bát, cũng không thể cứu rỗi được hồn người thi sĩ. Đoạn trích về nỗi đau, và cô đơn trên con đường mịt mù sương khói trong bài Minh Khúc 90 đã báo hiệu số phận của Nguyễn Tất Nhiên:

      “đường không gian – đã phân ly

      đường thời gian- đã một đi không về

      những con đường mịt sương che

      tôi vô định lái chuyến xe mù đời

      cu tí ngủ gục đâu rồi?

      băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con…”

      Có thể nói, nghị lực, và trái tim đa cảm của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không thể vượt qua được nghịch cảnh ở nơi miền đất lạ. Nó làm cho ông khủng khoảng tinh thần trong nỗi cô đơn đến tuyệt vọng. Nếu nói, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên là một bi kịch, thì diễn viên là ông, và đạo diễn cũng là ông. Và kịch bản ông viết từ hai mươi năm trước đã vận vào đúng cuộc đời, cái chết của diễn viên Nguyễn Tất Nhiên vậy:

      “Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

      Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

      Phải đau theo từng hớp rượu tàn

      Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định”

      Tôi thuộc thế hệ sau Nguyễn Tất Nhiên khá xa, và cũng chưa một lần gặp gỡ, hoặc được quen biết ông. Tuy nhiên, tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên, tôi đã biết khá lâu, khi đọc, hoặc viết về một số nhà văn gốc miền Nam khác. Đôi lúc tâm trạng buồn, vui tôi thường đàn hát những bản nhạc phổ từ thơ của ông, hoặc do ông sáng tác. Và Không hiểu tại sao, vài tuần nay như có một sợi dây tâm linh nào đó thôi thúc, buộc tôi tìm đọc, rồi viết về Nguyễn Tất Nhiên. Dù tôi cũng là “tên vô đạo” như ông. Đọc và viết trong vài tuần, sau giờ làm việc, do vậy, tôi nghĩ, không tránh khỏi những thiếu sót, hoặc sai lệch. Nhưng đã đọc, mà không viết, cứ để ứ hự ở trong lòng thì quả thật, có lỗi với Nguyễn Tất Nhiên thi sĩ.


      Leipzig ngày 15-3-2019

      Đỗ Trường

      Nguồn: sangtao.org

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Vài suy nghĩ nhân đọc Mây trên đỉnh núi của Nguyên Vũ Đỗ Trường Nhận định

      - Trần Mạnh Hảo- Người đã chết với tâm hồn bia mộ Đỗ Trường Nhận định

      - Những vết thương không bao giờ thành sẹo Đỗ Trường Truyện ngắn

      - Vũ Thư Hiên – Người giã từ thiên đường ảo ảnh Đỗ Trường Nhận định

      - Chùm thơ Vịn của Trần Hoài Thư Đỗ Trường Tạp bút

      - Phạm Tín An Ninh – Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu Đỗ Trường Nhận định

      - Nguyễn Tất Nhiên – Một trường thiên kịch bản bi ai Đỗ Trường Nhận định

      - Cao Đông Khánh – “Lửa Ngoài Giới Hạn“ cháy không tạ từ Đỗ Trường Nhận định

      - Vài suy nghĩ Về Tập Truyện Sợi Khói Bay Vòng Của Phạm Ngọc Lư Đỗ Trường Nhận định

      - Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học miền Nam Đỗ Trường Nhận định

    3. Bài viết về nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Nguyễn Tất Nhiên

       
      Cùng Tác Giả (Link-1)

      Nguyễn Tất Nhiên Và Vấn Đề Tự Tử (Hoàng Dung)

      Nguyễn Tất Nhiên – Một trường thiên kịch bản bi ai (Đỗ Trường)

      Nguyễn Tất Nhiên (Đinh Quang Anh Thái)

      Tưởng Nhớ Nguyễn Tất Nhiên (Hoàng Dược Thảo)

      Viết về Duyên (Đỗ Xuân Tê)

      Đọc Thơ Nguyễn Tất Nhiên (Vĩnh Hảo)

      Bài viết về Nguyễn Tất Nhiên (ngo-quyen.org)

      Nguyễn Tất Nhiên: Từ Thiên Tai Đến Tâm Dung (Nguyễn Lương Vỵ)

      Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ biểu tượng? (Nguyễn Bảo Hưng)

      Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (Mặc Lâm, RFA)

      Nhà thơ lãng tử dễ thương Nguyễn Tất Nhiên (Đoàn Dự)

      Một cái nhìn khám phá mới về Nguyễn Tất Nhiên (Người Xứ Bưởi)

      Tiểu Sử (wikipedia.org)

       

      Tác phẩm của Nguyễn Tất Nhiên

       
      Cùng Tác Giả (Link-2)

      Thơ Nguyễn Tất Nhiên-Minh Khúc (Đỗ Kh.)

      Tuyển tập thơ Nguyễn Tất Nhiên (luanhoan.net)

      Thơ Nguyễn Tất Nhiên (vnthuquan.net)

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Tình bạn trong văn chương (Trần Doãn Nho)

      Giáo Sư Trần Huy Bích – Người Hết Lòng Với Văn Hóa Dân Tộc (Việt Dương)

      Vũ Hoàng Thư. Hạt Nắng Phiêu Du (Nguyễn Thị Khánh Minh)

      Thanh Tịnh và Tôi Đi Học (Nguyễn Mạnh Trinh)

      Limeil, những ngày mây (Vũ Hoàng Thư)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)