1. Head_
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Những bài thơ khắc trên bia mộ (Nguyễn Mạnh Trinh) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      8-2-2019 | VĂN HỌC

      Những bài thơ khắc trên bia mộ

       NGUYỄN MẠNH TRINH
      Share File.php Share File
          

       


      Cuối năm âm lịch, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” như nhắc lại một thời văn chương đã qua, những chân dung văn học đã vắng bóng. Buổi trưa, vào thăm từng ngôi mộ cũa những nhà văn nhà thơ vừa đi khuất, đọc những vần thơ ghi khắc trên bia mộ, chợt thấy lòng bâng khuâng. Hình ảnh còn đây, ngôn ngữ còn đây. Nhưng người thì đã đi vào cõi vô thủy vô chung. Cái còn để lại, là những tác phẩm để đời, là những câu thơ vẫn cứ hoài trong trí nhớ của những người yêu mến.


      Nghĩa trang cuối đường Bolsa là nơi an nghỉ của nhiều tác giả của văn học Việt Nam. Phía đông con đường thì ồn ào nhịp sống trong khi phía tây con đường thì tĩnh mịch lặng lẽ. Hình như cái tương phản giữa cõi của người sống và cõi của người chết chỉ một dặm đường như gợi lại bao nhiêu sắc thái của người tị nạn. Vòm cây xanh ngát của nghĩa trang, màu xanh thẳm của cỏ, màu xanh lam của nắng và màu xanh nhớ ngút ngàn của gió, làm sự phân chia của sống và chết chỉ trong thế giới mơ hồ…


      Ðến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:

      “Nằm chơi ở góc rừng này

      Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang

      Xin em một sợi tóc vàng

      Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau

      Biết đâu thảo mộc bớt đau?

      Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

      Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?


      Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ Lúc Chết:

      “Anh cúi mặt hôn lên lòng đất

      sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng

      mười ngón tay sờ sọang giữa hư không

      đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh

      ở trên ấy mây mùa thu có lạnh

      anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời

      em có ngồi mà nghe gió thu phai

      và em có thắp hương bằng mắt sáng

      lúc ra đi hai chân anh đằng trước

      mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời

      hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai

      thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi

      đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói

      đột nhiên buồn chạy đến đứng trên mi

      anh chợt nghe mưa gió ở trên kia

      thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục

      anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc

      anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya

      trên tay dài giun dế rủ nhau đi

      anh lặng yên một mình nghe tóc ướt

      nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt

      ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài

      những bài thơ anh đã viết trên môi

      lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”

      Một bài thơ tưởng niệm Tháng tư, Tiễn biệt:

      “Tháng tư người đi hành trang là gió

      Hôm nay hình như có sợi mây hồng

      Thổi vào thiên thu nhịp tim sóng vỗ

      Dấu chân vết còn bảy sắc cầu vồng

      Câu hỏi quẩn quanh nửa khuya tỉnh thức

      Tháng tháng ngày ngày bèo bọt như sông

      Ðời cõi tạm ai phân vân mộng thực

      Như “có cũng xong mà không cũng xong”

      Tháng tư người đi hành trang là nắng

      Một thuở Paris câu hát bềnh bồng

      Ðôi mắt hạt dẻmầu phai im vắng

      Mi liếc khép rồi cuối nỗi nhớ mong

      Tự hỏi thâm tâm có đành quên lãng

      Trời chợt mưa mau ai lạy trời mưa

      “Tháng giêng và Anh” thẫn thờ dĩ vãng

      phong tỏa đường về thoáng mấy âm xưa

      Tháng tư người đi hành trang thao thiết

      Mặt nước sông Seine vẫn tạnh buồn tênh?

      Ðứng giữa đỉnh trời vẫy tay vĩnh biệt

      Ai ngẩn ngơ quanh mấy đợt sóng ghềnh?

      Không gian có đủ nỗi sầu thế kỷ

      Sao vằng vặc trời cũng lúc về ngôi

      “Giấc mơ” mênh mang mấy thời nghiệp dĩ

      phải “tôi đưa người hay người đưa tôi”

      Tháng tư người đi hành trang vô tận

      Chiếc lá còn bay “Tám phố Sài Gòn”

      Tiếng guốc quạnh không cuối hồn đứng ngẩn

      Màu lụa Hà Ðông làm nhớ vết son

      Ðất thẳm trời cao buồn như ga đợi

      Ngọn đèn vàng lu buồn nỗi xưa sau

      Nhủ thầm với lòng đừng nên bước vội

      Nhưng “chậm thế nào thì cũng phải xa nhau”!

      Có một đoạn thơ, đã được khắc trên bia mộ một nhà thơ, thi sĩ Long Ân:


      “Nay ta trở lại dòng sông cũ

      Rượu đã nhạt trong chai nhẹ không

      Ta thấy sông im nằm say ngủ

      Còn chính ta là sông mênh mông”


      Sông là người. Sông là ta. Ta với người, người với ta chia sẻ cùng nhau những nỗi niềm của một thời đại lịch sử đầy biến động. Dòng sông cũ chảy về biển lớn như bước trở lại cội nguồn. Câu thơ, như một kiếp người trôi đi từ lưu lạc, của một tiền kiếp hoang sơ trong số phận Việt Nam nào…


      Một bài thơ của người viết phiếm “Bỉnh Chúc Dạ Du” trên các báo Việt Nam Hải Ngoại và Thời Luận, của “nắng xế cõi chiều”, của “chưa khuất vết xe”, của “bên lề vẫy tay”, của “hồn vướng sợi mây”, của “bia mộ khắc tên” để nhớ về một người bạn đã “xa bóng trăng khơi” giữa mênh mông cuộc đời:

      Một người “bỉnh chúc dạ du”

      Gửi vào thiên cổ mịt mù nhân gian

      Trăm năm đã vội dặm ngàn

      Thoảng cười nụ tưởng hoa vàng còn mơ

      Tháng giêng, bước lạ bến bờ

      Con sông chảy thuở tình cờ gọi ai

      Người rằng “Thiên hà ngôn tai”

      Nhắc riêng đành một cõi ngoài quạnh hiu

      Tháng giêng, nắng xế cõi chiều

      Bạc phai tóc lộng chân xiêu nẻo về

      Người đi, chưa khuất vết xe

      Ngã tư ngỡ đứng bên lề vẫy tay

      Nhớ ai, hồn vướng sợi mây

      Vọng đôi mắt của tháng ngày chưa quên

      Vẫy tay, bia mộ khắc tên

      Chắt giọt rượu giữa vô biên một thời.

      Người xa, còn bóng trăng khơi

      Còn câu thơ giữa một đời mênh mông...

      Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là hai mười năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí…


      Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:


      “Thế giới có triệu điều không hiểu

      càng hiểu không ra lúc cuối đời

      Chẳng sao khi đã nằm trong đất

      Ðọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.”


      Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận. Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi…


      Khi còn sống, nhà văn Mai Thảo cũng đã nghĩ đến ngày nằm xuống ba tấc đất cuả mình. Bài thơ “Nghe Ðất” trong buổi trưa hôm nay chợt đến để thấy cái tâm của một người thoáng rộng ở giữa cõi tử sinh. Người nằm trong đất còn thoảng nghe tiếng “đời sau thở dài”

      “Nằm đây dưới bóng cây xanh

      Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời

      Mát thơm đất trải bên người

      Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm

      Ðất lên hương thấm qua hồn

      Nghe vui thoảng đến với buồn thoảng di

      Giữa giờ trưa nắng uy nghi

      Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu

      Người nằm nghe đất bao lâu

      Tai nương nhẹ tiếng đời sau thở dài

      Lung linh sóng nắng đan cài

      Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang

      Chợt đâu rụng tiếng phai tàn

      Rơi ngưng nửa ráng nắng chiều trôi qua

      Long hồn thiếp giữa triều hoa

      Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân.”

      Nhà thơ Nguyên Sa đã làm nhiều bài thơ nhớ bạn Mai Thảo:


      năm 1990


      Ông ngồi với hai ông Tây

      Ông kia tên Mác ông này tên Cô

      Buổi sáng ông chỉ say vừa

      Nửa khuya mới tới đúng mùa ruơụ ngon

      Tết này ông sáu tư tròn

      Nhìn ông tôi thấy vẫn còn Tháng Giêng


      năm 1996


      Lên cao mới biết núi buồn

      Tháng Giêng, ở đó, vẫn còn mù sương

      Trôi trong vô thức cỏ non

      Gọi tên Mai Thảo, chiêu hồn Cổ Ngư

      Ban đêm tâm sự gọi mưa

      Tiếng đời với tiếng ruơụ khuya tới rồi


      Tiễn bạn


      Ngọn đèn chiếu xuống bức tranh

      Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa

      Tiễn nhau thấy Tháng Giêng mưa

      Sông Hồng nước đọng bóng chưa nhập hình

      Tiễn anh linh hiển u minh

      Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi.


      Có một bài thơ, chép trên di cảo của nhà thơ Trần Hồng Châu tức giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch như một ký thác gủi lại trên mộ phần:

      “Anh nằm đây

      quay theo trục bánh xe luân hồi

      mộ địa

      mộ khúc đìu hiu

      gót chân em có lướt trên cỏ khâu xanh rì?

      Ðể mọc lên một loài kỳ hoa

      Ôm ấp thân anh trên vô cùng trần thế

      Nước mắt em có thấm qua những tầng địa kỷ?

      Ðể vào đáy tim anh

      Vuốt ve người thơ một thuơ yêu mê

      Cho vơi cạn

      Nhớ đất

      Thương trời”

      Hình như, có hai câu thơ dâng lên hương linh nhà thơ Trần Hồng Châu: “Phu thê nghĩa trọng, niềm kính yêu lòng thiếp kể sao nguôi/ phụ tử tình thâm, công nuôi dạy, phận con đền chưa đủ”. Và trong hồi nhớ, lời “cô” Nguyễn Khắc Hoạch để lại cho đời về “thầy” Trần Hồng Châu:

      “Tôi nhớ lại các Thành Phố Trong Hồi Tưởng, đó là các nơi chốn mà nhà thơ đã đến viếng thăm thời còn là sinh viên du học, cũng như các nơi mà chúng tôi sánh vai đi qua và đã hưởng được Hạnh Phúc Ðến Từng Giây. Tôi còn nhớ hình ảnh nhà thơ qua Nửa Khuya Giấy Trắng, tay cầm bút trần ngâm với Dăm Ba Ðiều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật. Rồi đất nước ly loạn phải tới nơi xứ người nhưng nhà thơ lúc nào cũng hướng về quê hương mà Nhớ Ðất Thương Trời. Chúng tôi đã đi qua nhiều nơi có rất nhiều suối: suối chảy qua khe núi, quanh chân đồi, suối chảy không ngừng. Ðó là suối bạc, suối trong, suối mơ, đối với nhà thơ tất cả là Suối Tím. Sau hết là Tuyển Tập Trần Hồng Châu, đây là sự chọn lọc cuối đời của nhà thơ vì người đã rũ sạch văn thơ, bụi trần để đi về miền an lạc”

      Những câu thơ tiền định ghi khắc trên bia mộ của Nguyễn Tất Nhiên như báo trước một đời tài hoa nhưng chết trẻ:

      “Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

      phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

      phải đau theo từng hớp rượu tàn

      phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định

      (vì Thượng Ðế từ lâu hiện hữu

      cầm trong tay sinh tử của muôn loài

      tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai

      thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)

      Những câu thơ ấy cũng như những câu thơ khác được khắc trên bia mộ của các nhà văn Mai Thảo, Nguyên Sa, Long Ân,… là một chứng tích của thế hệ lưu vong hôm nay để lại cho đời sau. Nhiều người ở xa khi đến thăm Little Sài Gòn, đã thường đến nghĩa trang ở cuối đường Bolsa để chiêm ngưỡng những câu thơ đặc biệt ấy…


      Có bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Tất Nhiên sau một ngày thi sĩ qua đời. Buổi trưa hôm nay, khi nhìn di ảnh và đoạn thơ trên mộ, tự nhiên những bài thơ kỷ niệm của riêng tôi thoáng qua trong trí nhớ. “Thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá”. Vỡ tan. vỡ tan…

      “ngày hôm qua thi sĩ đã chết

      Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu

      Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc

      Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau

      Một mình cơn mộng du không dứt

      Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai

      Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực

      Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay

      Ngày hôm qua thơ tình đã hết

      “thà giọt mưa trên đá” vỡ tan

      cành “trúc đào” nở hoa oan nghiệt

      rất yêu em dù nỗi muộn màng

      đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng

      ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim

      gánh nhân gian đôi vai còn nặng

      “Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng

      Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt

      Hạt bụi nào hành trang đi xa

      Này “cô gái Bắc kỳ” mắt biếc

      Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?

      Hát lên đi bản nhạc xưa cũ

      Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu

      Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ

      Lửa vô minh khói ngút bờ lau

      Ngày hôm qua trái đất đứng sững

      Chân lao đao thế giới lạ lùng

      Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng

      Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.

      Sống là chịu vai trò thất ý

      Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm

      Ðáy tâm cảm loài hoa kỳ dị

      Mọc rễ trong da thịt ăn năn

      Ngày hôm qua thi sĩ đã chết

      Gót chân trần dẫm cõi hư không

      Bài thơ tình chẳng có đoạn kết

      Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng

      Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?

      Ba trăm năm, ý nhớ tình quên

      Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi

      Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!”

      Nguyễn Mạnh Trinh

      Nguồn: sangtao.org

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Thanh Tịnh và Tôi Đi Học Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Đọc thơ Trần Vấn Lệ Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Đọc Thơ Đường Ta Đi của Nguyễn Lê Minh Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Tưởng niệm Nguyễn Đức Lập Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Nguyễn Ðức Tùng: Từ “Thơ Ðến Từ Ðâu” đến “40 Năm Thơ Việt Hải Ngoại” Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Đọc Thơ Trạch Gầm Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - “Những chuyện rất Việt Nam” của tác giả Đỗ Tiến Đức Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Từ Huỳnh Phan Anh đến Diễm Châu: Văn chương và thời thế Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

      - Lệ Khánh, Em là gái trời bắt xấu Nguyễn Mạnh Trinh Nhận định

    3. Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Đọc Thơ Nguyên Lạc, Nghĩ Về Những Cuộc Hành Xác Tự Nguyện (T.Vấn)

      Lệch pha và trăn trở: đọc sách “Cái vội của người mình” của Vương Trí Nhàn (Nguyễn Văn Tuấn)

      Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)

      Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)

      Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)