15-12-2016 | VĂN HỌC

Nguyễn Xuân Thiệp, xương rồng nở hoa cùng ‘gió mùa’

  DU TỬ LÊ


  Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp  (tranh Ðinh Cường)

“Tôi Cùng Gió Mùa” thi phẩm đầu tay của một người có trên nửa thế kỷ ăn ở liên lủy với thi ca: Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp. (1)

Ðó là tuyển tập thơ của họ Nguyễn với bài đầu tiên ghi năm 1954, kế tiếp, năm 1962, sau đó là những bài thơ được tác giả viết vào những năm đầu thập niên 1970s, rồi 1980s và, những bài thơ không ghi năm tháng… Nhưng qua nội dung, tôi nghĩ đó là những bài được viết ở xứ người sau năm 1995, khi họ Nguyễn chọn định cư tại Hoa Kỳ.


Tuy tác giả chọn bài “Tôi Cùng Gió Mùa,” viết năm 1974, làm tựa đề chung cho thi phẩm, nhưng tôi lại thấy những sáng tác họ Nguyễn viết năm 1980, khi ông đang bị tù cải tạo ở Nghệ Tĩnh (?) là những bài thơ đáng chú ý nhất. (2)


Với tâm thái an nhiên, chấp nhận định mệnh, chấp nhận bi kịch đời mình, chấp nhận tai họa chung của đất nước, Nguyễn Xuân Thiệp không chú tâm khai thác những năm tháng địa ngục như đói, rét, lao động cực nhọc: Ðào hầm, khai mương, làm rẫy, nuôi heo, chăn bò, khuân đá, phá rừng, đốn cây, vác củi… ban ngày, học tập ban đêm, v.v… Ông cũng không cho thấy qua thơ ông, cái tinh thần khinh bạc hoặc, cường điệu giễu cợt những thảm cảnh chung của đời tù mà, ông để thơ chở ông bay bổng tới những chân trời tâm cảm:

“qua mưa

thấy đời, như một bông sen

qua mưa

thấy đời như mâm xôi chín ửng


“này người bạn đường. cùng ta đi dưới cơn mưa tháng hạ

có chi đâu mà lặng thinh

có chi đầu mà muộn phiền

thôi. gần lại bên nhau. và nói

mưa ở đây. như mưa ở quê nhà…”

(Trích “Mưa ở đây như mưa ở quê nhà” tr. 47 & 48)

Hoặc:

“mùa hạ. ta qua vùng thảo nguyên

gió thổi. chiều xanh trôi với nắng

khoảnh khắc. vầng trăng bạc nhú lên

cánh chim theo trăng vào trời rộng

nhà ai. đèn lồng soi trước hiên

nhủ thầm. nhà ta sau hàng phượng

ta đi năm năm qua thảo nguyên

cảm ơn phút giây đời giao hưởng…”

(Trích “Thảo nguyên,” tr. 66)

Hay ông là người chủ động chắp cho thơ mình đôi cánh an lạc, bay ngược về thơ ấu và những giấc mơ trong sáng, từ cảm thức thi sĩ, thoát trên mọi bon chen hiện thực áo cơm:

“Về lượm trái thông khô rớt vãi

nhặt cành cây mục. lá thu. phơi

đốt lên đống lửa. đêm ngồi sưởi

lúc ngó quanh. nào thấy có ai


“người về bên gốc thông già cỗi

thuở nhỏ thường ra đứng ngắm trăng

cúi nhặt dưới chân viên ngói vỡ

thấy đời còn những tấm gương tan”

(Trích “Ánh trăng,” tr. 104)

Ở mặt khác, họ Nguyễn cũng cho thấy nỗ lực thắp những ngọn bạch lạp nhân bản, soi rọi mặt tối tăm của ảo tưởng đời thường hay, hiện thực lầm than xã hội. Cùng lúc, những ngọn nến lung linh trong thơ Nguyễn Xuân Thiệp, cũng cho người đọc nhiều câu thơ đẹp:

“trăng khuya. như một loài chim quý

bay suốt nghìn năm. hót một lần

dưới mái chùa tây. vang tiếng kệ

vị sư già đã thức. chuông ngân


“âm thanh như một làn hương sữa

chảy xuống hồn ta đã lặng dần

hạt lệ muốn rơi. giờ đọng lại

trăng. nguyệt cầm ơi. ngọc mới đông

(…)

nhưng thôi nhân loại vui vầy cả

yêu cuộc đời trong lẽ bất toàn

chút nghĩa thủy chung ta giữ vẹn

lòng ơi. trải rộng gió nhân gian…”

(Trích “Ánh trăng,” các tr. 101, 102,104)

Cũng trong loạt thơ thuộc thập niên 1980s, viết thời tù cải tạo, Nguyễn Xuân Thiệp còn cho người đọc ông bài “Ðốt lửa nghe sư đàn” – – Hình ảnh và ý tưởng tôi không thấy nơi thơ tù của những tác giả khác:

“…lửa củi soi. nhà sư mặt ốm

kể từ sư rũ áo đi đày

cái tâm mây nổi. trăng thiền đạo

cuộn cuộn trường giang. sóng lục đầu

đầm cỏ. nước in. thân cò vạc

bắt cua. vồ nhái. ngày qua ngày

đêm đêm. ôm đàn trong xó tối

(…)

người nghe đàn. khơi lửa đỏ khuya

tóc râu tiền kiếp. đầm hơi mưa

bỗng thấy. sân nhà. cây sứ gãy

năm cửa ô quan. ngấn lệ mờ

(…)

sư bỗng ngừng đàn. nhìn đống lửa

gốc cây. cháy như đầu thiên cổ

huyễn huyễn. củi tàn. màu kinh xưa

mặt đất chừng qua cơn mộng dữ

nên ngón tay gầy. như ngón sen…”

(Trích “Ðốt lửa nghe sư đàn,” tr. 121, 122,123)

*


Là người có bài ghi nhận rất sớm về thi phẩm “Tôi cùng gió mùa,” nơi đoạn kết bài viết của mình, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ cảm thán:


“…Bản giao hưởng thơ “Tôi Cùng Gió Mùa” chắc chắn sẽ còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc, trong dặm dài năm tháng mai sau…”



Tưởng cũng nên nhấn mạnh, cõi giới thi ca họ Nguyễn rất ít tĩnh từ (khía cạnh giầu có của ngôn ngữ Việt). Nhưng cũng nhờ thế mà, thơ Nguyễn Xuân Thiệp có được tính cô đọng, sắc xuống, như những thân xương rồng sa mạc, nở hoa cùng… gió mùa của họ Nguyễn!


(Tháng Sáu 2015)


Nguyễn Xuân Thiệp, vài bài thơ

Ðốt lửa nghe sư đàn.

đốt lửa. chừng như người qua khe

mùa đông. tím những nương mưa

đốt lửa bên trong lán suối

mưa. mưa. trên con đường núi

có ai tìm vầng trăng mọc khuya

rét. đói. sầu miên. đất. đá. gỗ

đầm sấu hoang. lau thắp. bến chờ

lửa đã cháy. cháy trên củi ướt

tù ngồi hơ tay. nghe cổ tích

chuyện đường huyền trang đi thỉnh kinh

bỗng trong đêm. rộ tiếng ai đàn


lửa củi soi. nhà sư mặt ốm

kể từ sư rũ áo đi đày

cái tâm mây nổi. trăng thiền đạo

cuộn cuộn trường giang. sóng lục đầu

đầm cỏ. nước in. thân cò vạc

bắt cua. vồ nhái. ngày qua ngày

đêm đêm. ôm đàn trong xó tối


năm ngón tay gầy. tiếng thổ cầm

sư ngồi đàn. như cây trăm năm

lửa cháy. xèo xèo. mùi nhựa ngái

khói tỏa. mù khe. màu cỏ rối

dạo đàn. mưa thu rơi trong trăng

tiếng mau. chim bay qua mùa đông

đàn ánh thép xanh. gươm phạt trúc

gỗ nổi. đá lăn. trâu bứt gốc

hồn u. mả tối. đây là đây

rạng tiếng ngư dương. thơ quỷ đọc

lán sâu. bếp ảo. lửa đào lay


cây đàn gỗ xưa. như mặt trăng

năm ngón tay gầy. như chim ưng

bật dây. rỏ máu. hoàng hôn rừng

gọi những mùa đi không trở lại

đàn qua. tiếng buồn trong lau sậy

gió thu. đưa võng. ai chờ ai

đêm cẩm khê. đàn trong u độc


người nghe đàn. khơi lửa đỏ khuya

tóc râu tiền kiếp. đầm hơi mưa

bỗng thấy sân nhà. cây sứ gãy

năm cửa ô quan. ngấn lệ mờ

những nẻo chiều sương. người rách rưới

những mái nhà. mưa xoi. nắng dọi

lọ rơi. sành vỡ. lục cục âm

khuya rồi ai đẽo gỗ huỳnh đàn

ửng sắc hoa gầy. trên áo quan


sư bỗng ngừng đàn. nhìn đống lửa

gốc cây. cháy như đầu thiên cổ

huyễn huyễn. củi tàn. màu kinh xưa

mặt đất chừng qua cơn mộng dữ

nên ngón tay gầy. như ngó sen

hơi đàn trôi trong hương lá xanh

đàn ngân. Cánh chim soi trên đầm

màu hoa mơ nở. trắng non ngàn

từ trong độ ấy. giờ trăng mọc

ánh trăng. chảy vàng trăm cửa sông


bếp rụi. lửa riu. âm đàn dứt

trăng lên rồi. hổ xuống cẩm khê.

(1980)

July 10, 2015

Du Tử Lê

Nguồn: nguoi-viet.com

Chú thích:

(1) Bản in lần thứ nhất tại Hoa Kỳ, năm 1998. Tái bản năm 2012.

(2) Căn cứ nơi bìa 4 của thi phẩm “Tôi cùng gió mùa,” tiểu sử nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp có thể tóm tắt như sau: Họ Nguyễn quê quán ở Huế. Làm thơ đăng báo từ trước 1954, học ở Huế và Saigon, ông dạy học ở Mỹ Tho trước khi nhập ngũ năm 1963. Ðược chọn về làm đài phát thanh Quân Ðội ở Pleiku, Ðà Lạt, rồi Saigon, tháng 5, 1975, ông đi tù cải tạo tới năm 1982. Năm 1995 định cư tại Mỹ, ông có thơ đăng ở nhiều tạp chí văn chương như Văn Học, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, Văn… Là chủ biên tạp chí Phố Văn từ 2000 tới 2008, cùng gia đình, ông hiện cư ngụ tại thành phố Dallas, Texas; cộng tác với báo Trẻ Magzine ở thành phố này.