31-01-2018 | VĂN HỌC

Bi Khúc Của Kẻ Lưu Đày

  NGUYỄN LỆ UYÊN

(Viết thêm ở Noọngkhai khi nhận được tập thơ thứ hai của ĐKC gửi tặng)



   Nhà thơ Đặng Kim Côn

Võ Phiến nói: "Cầm bút là cầm bất hạnh" (*). Trong trường hợp này, với Đặng Kim Côn thì thơ ca của ông là tiền đề cho nhũng bất hạnh kia, hay chính những bất hạnh trong cuộc sống đã làm bật ra dòng thơ miết nỗi đau lên "kè đá", khi mà ông bị bắt lần thứ hai, bị tống vào trại giam khoảng giữa năm 1978 với tội danh "nhen nhóm phản động và tổ chức ám sát cán bộ".


Hai lần đi tù cách nhau không xa. Lần trước vào tù không có bản án; lần sau là hành động khủng bố trắng trợn về mặt tinh thần và thể xác. Và, dẫu ngồi tù cách nào đi nữa thì tự do chỉ còn là chiếc bóng chập chờn ngoài song sắt, là sự tước đoạt mọi hành động và tư tưởng của con người! Ông đã gánh chịu thân phận của kẻ lưu đày trong nhiều ngày liền năm tháng.


Chênh vênh trong nỗi nhục nhằn, ông đã gượng dậy và bước tới, như Phùng Quán từng thú nhận trong những năm tháng đen tối nhất cuộc đời: "Có những phút xao lòng/Tôi vịn câu thơ đúng dậy". Và, Đặng Kim Côn cũng thế, trong tù ngục, ông tự trấn an, vỗ về mình bằng chính những dồn nén, bật ra bằng ngôn ngữ thơ ca:

Của song còng sắt im lìm

Chân tê điếng duỗi theo niềm đau quay

Chén cơm lung, độn ngô đầy

Muỗng canh đen mặn dỗ ngày nghẹn trôi.

Chốn ngục tù không phải là nơi tình cảm dạo chơi, mà là những quay quắt khôn cùng, khi phải chứng kiến nhiều cảnh huống đắng cay nhất:


Nương dây trói đứng như say

Bàng hoàng ngó những cổ tay bạn bè


Ông đã chứng kiến trọn vẹn tấn tuồng, và tự hỏi:

Tù không án sẽ bao lâu

Rừng thiêng, nước độc, về đâu đọa đày

Hồn ta tan tác khói mây

Tay ra đâu hỡi bàn tay tím bầm?

Trong một lần hiếm hoi duy nhất, được phép về thăm hai đứa con côi cút (vợ mất qua cơn bạo bệnh), ông đã gặp người thiếu nữ mang tên Bích Ngọc như một định mệnh được báo trước: Yêu nhau, sau đó, vì đồng cảm cảnh ngộ cay đắng của nhau. Mối tình bất ngờ và đầy nước mắt ấy đã khiến ông không thể dằn giấu những cảm xúc ào ạt trào lên, tận đáy lòng. Họ yêu nhau. Yêu trong vòng lao lý. Yêu trong tiếng thơ nghẹn ngào, yêu trong cánh bay những bi khúc lồ lộ những tang thương, trầm thống phận người cuộn xoáy trong vũng lầy tanh tưởi một thời vô thỉ vô chung.



Dưới Trời Dạ Ngọc là một Bích Ngọc, như một nàng tiên nhân ái đã chia sẻ "gùng cay muối mặn" trong suốt những ngày ông bị giam giữ và một thời gian lâu sau này, là mối tình cất lên bằng giọng ca ai oán, có cả nụ cười và nước mắt, là cõi lòng hân hoan và tan nát, là hạnh phúc và đau đớn khôn cùng đan chéo nhau, được viết lén lút trong trại giam, khi năm câu khi ba câu; viết trên những vỏ thuốc lá, trên nhũng khoảng trắng của những tờ báo lem luốc lúc bấy giờ, đánh số, cất giấu và bí mật chuyển ra ngoài qua những lần được thăm nuôi của những người thân, bạn bè và ngay chính người thiếu nữ, đẩy ông vào chốn thơ ca bi lụy: kể lại câu chuyện tình giữa người đàn ông góa vợ có hai con thơ, đang trong trại tù với người thiếu nữ vừa bước qua tuổi hai mươi.


Nàng Bích Ngọc, trong tận đáy lòng ông đã biến thành Dạ Ngọc, là những bát trăng vàng dịu dàng ru ông tùng đêm, ngày dài và tiếp liền tháng năm nhục nhằn!


32 năm qua đi kể từ khi ra khỏi trại giam, ông không hề nghĩ rằng những vỏ thuốc lá, những mẩu giấy ố màu chít chít chữ ông viết ngày nào, có thể còn tồn tại trên cõi đời này, chỉ vì trong nỗi khổ đau cùng cực, ông viết như một giải tỏa, như những uẩn ức oan khiên được ném ra ngoài, cho vơi nhẹ chút nỗi đau. Ông không quên những gì mình đã viết ra trong hoàn cảnh ấy, nhưng chuyện những câu thơ kia vẫn hiển lộ trong khoảng thời gian dài đau khổ, là điều ông không hề mơ tưởng.



    Dưới Trời Dạ Ngọc (bìa sau)

Chuyện không tưởng ấy, đến nay đã trở thành có thật, khi mà Bích Ngọc nâng niu, lưu giữ trong chiếc tráp gỗ như chị đã nâng niu mối tình đầu của mình với nhà thơ suốt từng ấy năm dài! Chị đã chấp nhận mọi trớ trêu cuộc tình, chỉ để giữ lại cho riêng mình những hình ảnh, những tháng ngày ngắn ngủi, ngọt ngào nhất, cay đắng nhất mà chị đã từng nếm trải, từng ấp ủ: Đó là 860 câu lục bát Dưới trời Dạ Ngọc viết cho mối tình quá nhiều trắc trở, là 860 ánh trăng từ sơ huyền đến khuyết nguyệt.


Mảnh trăng Dạ Ngọc ấy, đã chiếm giữ hồn ông, ám ảnh ông từ một cái nhìn thảng thốt: Trời Dạ Ngọc sáng long lanh... long lanh đến trong vắt cuộc tình Mênh mông khắp dáng anh ngồi đợi xe.


Với ông, trong tập Dưới Trời Dạ Ngọc, thơ không còn là ẩn ngữ. Nó là cuộc tình khơi vơi, vắt chéo ánh trăng trải vàng tấm thảm trong lầu các nguy nga những rạo rực, say đắm, những khắc khoải cjờ mong. Nó vừa lướt qua và quấn quít, trói chặt hồn người, đắm chìm vào cõi mộng, chen lẫn giữ hư và thực; giữa cuộc đày và hương hoa quỳ thoang thoảng bên ngoài song sắt. Đó là những tâm tình nối dài giữa hai thế giới: Trong và Ngoài. Nó hiển hiện như những vì sao cô độc trong màn trời đêm khuya khoắt, lạnh ngắt "hơi đồng", buốt giá trái tim thoi thóp. Tất cả đều hiển lộ ra bên ngoài, từ dòng sông Trăng Bàn Thạch đến ngọn núi Chóp Chài cô đơn bên rìa cuộc lữ.


Dưới Trời Dạ Ngọc không chia khúc đoạn, mà là 860 ánh trăng đêm vàng trải khắp chốn nhân gian với những dằn xé tâm cảm đoạn trường: Hai đứa con thơ, tù đày, bàn tay ấp ấm nồng nàn che đỡ của Dạ Ngọc.


Mối tình như khúc Ly Tao, như tiếng chim Thư Cưu vang vọng từ đâu đó, xa lắc trong màn đêm.

"Tâm tình đã thổ lộ thì cuộc giao tình thắm thiết mở ra" (**) để bạn đọc có được bản gốc trên tay, sau 32 năm ủ kín trong miền ký ức.


(Tháng 7/2011)


(*) Võ Phiến, Cuối Cùng, Thế Kỷ 21, Hoa Kỳ, 2009

(**) Tuệ Sỹ, Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng, Ca Dao, SG 1973

Đặng Kim Côn

Sinh 1948 tại Phú Yên

Thơ đăng đầu tiên trên Bút Hoa (l967).

Viết cho Khởi Hành từ 1973.

Cựu Sinh Viên Sĩ Quan 3/69 Thủ Đức, cấp bậc sau cùng Trung Úy.

- Đã in:

• Một Ngày, Một Ngàn Ngày (tập truyện, NXB Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ, 2011)

• Để Trăng Khuya Kịp Rót Đầy Sớm Mai (thơ, NXB Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ, 2011)

• Dưới Trời Dạ Ngọc (thơ lục bát, NXB Thư Ấn Quán, Hoa Kỳ, 2011)

- Có tác phẩm trong:

• Thơ Miền Nam Thời Chiến (Tập 1, NXB Thư Ấn Quán)

• Văn Miền Nam (Tập 1, NXB Thư Ấn Quán)

Nguyễn Lệ Uyên

Trang Sách & Những Giấc Mơ Bay, Tập II
Thư Ấn Quán xuất bản 2012