|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà văn Doãn Dân
(HS. Nguyễn Trọng Khôi vẽ)
Nhà văn Doãn-Dân họ Trần, sinh ngày 11-7-1938 tại Nam Định, di cư vào Nam năm đất nước qua phân 1954, gia nhập quân đội và viết văn. Ông có truyện ngắn đăng trên tạp chí Chỉ Đạo, Văn, Bách Khoa (Ba Me, Tiếng Gọi Thầm, ...) và các giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong. Tác-phẩm đầu tay là truyện ngắn Cái Vòng đăng trên Chỉ Đạo số 1-8-1959 và hai tác-phẩm đã xuất-bản: Chỗ Của Huệ (Sài-Gòn: Nhân Văn Xã, 1968), Tiếng Gọi Thầm (Tân Văn, 5-1972). Ông tử trận tại chiến trường Quảng Trị ngày 29.4.1972.
Doãn-Dân đã đến với chúng tôi khoảng năm 1962, năm tôi vừa lên trung học. Năm đó người cậu cả của chúng tôi đứng đầu ngành Chiến-tranh tâm-lý của quân đội Việt Nam Cộng hòa suốt bảy năm, vì bất đồng chính kiến với lãnh đạo chế độ Đệ nhất cộng hòa, đã bị gởi đi làm ngoại giao. Ông ra đi và chuyến đi bị thời cuộc đất nước biến thành lưu-vong từ sau vụ đảo chính tháng 11 năm 1963, nhưng đã để lại tủ sách ở nhà chúng tôi - và đó đã là những cuốn sách đầu tiên đi vào cuộc đời văn-hóa của chúng tôi. Tủ sách ngoài những tài liệu và lý thuyết về tâm lý chiến, những diễn văn viết cho tổng thống (do Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ,... viết), sách binh lược và quân sự như của Võ Nguyên Giáp, triết học của Paul Foulquié, LM Cao Văn Luận, v.v.. còn gồm những bộ tạp-chí Chỉ Đạo, Mai, Bách Khoa, Quê Hương, Văn Hóa Á Châu, Văn Hóa Nguyệt San, v.v... và những tác-phẩm văn-chương như tiểu-thuyết và tập truyện của những Kỳ Văn Nguyên, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Ngọc Liên, Triều Đẩu, Phan Văn Tạo, Triều Lượng Chế, Nguyễn Ái Lữ, Nguyễn Đạt Thịnh, Mặc Thu, Lan Đình, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Triệu Nam, Đỗ Thúc Vịnh, Đỗ Đức Thu, các kịch bản của Ngô Xuân Phụng, các bút ký vượt tuyến, toàn bộ Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn và thi tập của Diên Nghị, Đỗ Tấn, Tô Kiều Ngân, Tường Linh, Phạm Đình Tân, Huy Lực, v.v... Tất cả cùng với gần 3 ngàn sách báo trân quí khác do tôi sưu tập đã không theo tôi rời khỏi nước trong đêm rạng sáng ngày 30-4-1975.
Chính trên Chỉ Đạo, tạp-chí văn-học nghị luận chính-trị vào thời đầu của nền văn-học tự do 1954-1975, tôi đã được đọc và say mê những truyện ngắn của Doãn-Dân. Chỉ Đạo là cơ quan ngôn luận của Ủy ban chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng của bộ Quốc phòng, từ số 3 với thiếu úy đồng hóa Nguyễn Mạnh Côn làm thư-ký tòa soạn, với sự góp mặt thơ văn của Đỗ Tốn, Nguyễn Triệu Nam, Lan Đình, Tường Linh, Duyên Anh, cả Bình-Nguyên Lộc, cùng biên khảo, nghị luận của các giáo-sư Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Thiệu Lâu, BS Hoàng Văn Đức, Toan Ánh, v.v... và từ 1959 thêm các nhà văn Trần Phong Giao, Phan Kim Thịnh, Dương Kiền, Hà Huyền Chi, DoãnDân, v.v... Ngoài những bài nghị luận chính-trị mở đầu nhắm cổ vũ cho tinh thần chống Cộng, cho phong trào chống Cộng, diệt Cộng (trong khung cảnh chính-trị này xuất hiện danh xưng "VC, Việt cộng" ngầm nghĩa "diệt cộng" theo cách phát âm của người miền Nam) cùng bài phong, phản đế, là những biên khảo văn-hóa, văn-học và nhất là phần thơ văn thì phong phú, đa dạng. Nếu so với tạp-chí Sáng Tạo cổ vũ tinh thần tự do và văn-chương mới từ Âu Mỹ qua biên khảo, nghị luận và sáng tác thì Chỉ Đạo cổ võ văn-nghệ và văn-hóa dân chủ, tự do mà sáng-tác thì đủ thể loại và Nam Trung Bắc đủ mặt! Cả hai, Sáng Tạo và Chỉ Đạo, đều ra mắt cùng tháng 10 năm 1956.
Văn-học miền Nam tự do 1954-1975 mặt nổi đã bắt đầu với bộ phận nhà văn, nhà báo thiên cư từ Bắc di cư vào. Trước đó đã có những nhà văn Bắc vào Nam sinh hoạt văn-chương và báo chí nhưng chìm vào đa số miền Nam, nay đất nước qua phân, hàng loạt người di cư đã đem theo ngôn từ và không gian văn-hóa Hà-nội của thời tiền chiến và kháng chiến được làm sống lại và sống động một cách chân thành và đa số với đam mê. Nhóm nhà văn thơ này phần lớn đã sinh hoạt văn-nghệ trước khi di cư như Triều Lượng Chế, Đỗ Tấn, Triều Đẩu, Đỗ Thúc Vịnh, Đỗ Đức Thu, Toàn Phong và những cây viết mới xuất hiện đã mạnh như Nguyễn Mạnh Côn, hoặc trẻ hơn mới nhập làng văn như Duyên Anh và Doãn-Dân.
Ở Doãn Dân nói chung là ngôn từ của một không gian đã vừa mất, và một thời gian chỉ vừa qua đi nhưng khó trở lại - thời tự do, và ở Hà-Nội. Quá-khứ gần nhưng không lối thoát, khó qui hồi, của ấu thời hay thời thanh niên mới lớn. Mới đó nên hãy còn sống động trong tâm trí và đánh động ngòi bút văn-chương. Đó cũng là không gian với những giàn hoa thiên lý ở Duyên Anh, những cánh hoa vông vang ở Đỗ Tốn, những mùa trăng cũ ở Hoàng Ngọc Liên, những vỉa hè Hà-nội ở Triều Đẩu, những con đường và khuôn mặt Hà-Nội, Bắc Ninh ở Thanh Tâm Tuyền, v.v... Đó cũng là những nỗi ám ảnh trong tâm thức những nhà văn phải sống lưu xứ này: người đi nhưng vẫn còn người ở lại và những kỷ vật, biến cố không thể đều là hành lý mang theo được. Doãn-Dân cũng như nhiều nhà văn khác đã mở đầu sự nghiệp với những tác phẩm mang tính tự thuật, lấy đời sống và kinh nghiệm bản thân làm chất liệu, rồi với thời gian tính chất này sẽ loãng dần, kín đáo hơn hoặc biến mất.
- Truyện đầu tay Cái Vòng của Doãn-Dân đưa người đọc cùng tác-giả trở lại nơi đất cũ, vườn nhà thời niên thiếu - những tàn tích của quá khứ, với những trò chơi ngày còn bé và một mối tình ngây thơ chớm nở! Những hoài niệm, cái còn lại của những gì đã đánh mất nhưng hiện như đang bám vào hiện thực vì sống động trong tâm tưởng và ký ức, cảm tính hay ý thức. Tình tiết câu chuyện ở đây nhường chỗ cho một ngôn từ của tâm cảm và tiềm thức, thứ ngôn từ dễ đánh động tâm thức độc-giả và rất văn-chương ở Doãn-Dân. Kỹ thuật hành văn nhẹ nhàng, gãy gọn dù với những câu văn dài chạy theo tình tiết của câu chuyện kể. Thật vậy, những truyện ngắn ở giai đoạn sáng-tác đầu, Doãn Dân đã cho biết khi trả lời phỏng vấn văn nghệ của Nguiễn Ngu Í, rằng ông sáng tác giản dị "chỉ vì tôi muốn thi vị hóa cuộc-sống đã qua của tôi" (Bách Khoa 110, 1960?, tr. 98-101). Như truyện ngắn Cái vòng đăng trên Chỉ Đạo và trong vài truyện khác thời đầu, tác-giả "chỉ có mỗi một ý muốn duy nhất là để được sống lại cái cuộc-sống đã qua mà tôi luôn luôn nhớ tiếc, sự nhớ tiếc tạo cho tôi cái bâng khuâng, rạo rực và day dứt khiến tôi phải để cho nó thoát ra ngoài bằng cách ghi lên giấy. (...) hình như tôi viết chỉ cốt để thỏa mãn sự khao khát của riêng mình...".
Cái Vòng xuất hiện, Doãn-Dân đã được đón nhận như một nhà văn vững tay nghề. Tác-phẩm của nhà văn trẻ sau đó ngoài Chỉ Đạo còn xuất hiện trên các tạp-chí đại diện cho một truyền thống văn-chương - Tự-Lực văn đoàn: Văn Hóa Ngày Nay, Tân Phong; từ đó ra đến Bách Khoa và Văn.
Giai đoạn tiếp theo mà Doãn Dân gọi là "giai đoạn hơi phiền phức hơn giai đoạn trước". Truyện ngắn đầu đánh dấu cho thay đổi này là Linh Hồn Tôi, tác-giả viết vì "thấy cần phải viết thì tôi viết" và cảm hứng có thể đến từ "những gì không thuộc về tôi", từ "những hoàn cảnh làm tôi rung động..., ở hoàn cảnh "mình sẽ nghĩ gì và sẽ hành động ra sao". Đó là hoàn cảnh ra đời của các truyện đăng trên giai phẩm Tân Phong: Hoa Nở Muộn, Khép Cửa, Giọt Nắng,... Doãn Dân cho biết ông "chỉ viết và cũng chỉ mong viết những gì có thực trong ý nghĩ tôi, dù những cái 'thực' ấy vô cùng phiền phức và vô cùng mâu thuẫn".
- Con người sống xa quê hương nguyên quán có thể không ngày về, sống di cư hay định cư nơi vùng đất mới, thường sống như sống nhờ sống tạm, sống với cái tâm lý phân thân và trống rỗng hụt hẫng thường trực. Trong hoàn cảnh đó, Doãn-Dân đã đi từ cái Tôi tự sự đến những nhân-vật hiện thực của đời thường, rời bỏ thiên đường của hạnh-phúc, của những hoài niệm để nhập cuộc cho một kiếm tìm hạnh-phúc khác, cho đến khi tử trận, lúc mà cuộc chiến huynh đệ tương tàn đang ở cao độ của kinh hoàng và bí lối. Thể loại văn-chương của cái Tôi tự sự vẫn sống mạnh cho đến ngày tạm ngưng cuộc chiến, với những tác-giả như Nguyễn Đình Toàn trở lại lãng mạn (Áo Mơ Phai, 1974), v.v...
Ở những truyện ngắn của giai đoạn đầu, các nhân-vật có tên hoặc xưng Tôi thường là đàn ông và thường mang bóng dáng tác-giả. Các nhân-vật nữ có mặt nhưng không đóng vai chính hay quan trọng. Phải đến giai đoạn sau thì các nhân-vật nữ thường đóng vai chính, dù các nhân-vật nam có mặt và có vẻ dẫn dắt câu chuyện. Như Chỗ Của Huệ (1968) là tác-phẩm đầu tay được xuất-bản của Doãn-Dân, một tiểu-thuyết tâm lý xã hội. Một câu chuyện tình của Sơn, nhân-vật xung Tôi với cô gái giang hồ tên Huệ. Họ sống trong một ngõ tối của một khu xóm 'khả nghi' của đô thành Sài-Gòn. Sơn yêu Huệ, về sống chung với quyết tâm vớt nàng ra khỏi vũng bùn ô uế, ước mơ "đem nàng thoát khỏi chốn này để rồi chúng tôi cùng nhau đi đến cái chỗ ... thành ra những kẻ bình thường". Nhưng Sơn thất nghiệp phải sống bám vào những đồng tiền của một thời Huệ 'đi khách'. Cạn tiền, Huệ trở lại 'đi khách' nhưng Sơn ghen, vũ phu đánh Huệ. Rồi Sơn được bạn nhường chỗ kèm trẻ, hai người dọn đi ở xóm khác, một xóm lao động, thợ thuyền. Nhưng Huệ bị nhiều người dân trong xóm biết được dĩ vãng nên gọi nàng là 'đĩ' và cũng vì tai tiếng đó nên Sơn cũng mất chân kèm trẻ. Huệ bỏ trở về căn nhà thấp nơi xóm cũ, mong đợi Sơn cùng trở lại nơi đó, nhưng Sơn tự ái đã không nghe theo. Chàng chỉ trở về một năm sau, sau khi nhẫn nhục tìm được việc làm ở một ga nhỏ; chàng thuê nhà khác, trang hoàng chu đáo rồi tính đón Huệ về.
Khi Sơn tìm đến ngõ cũ thì Huệ đã chết vì bệnh lao, người quen đã đưa lại cho chàng sợi dây chuyền vàng mà Huệ vẫn xem như bùa hộ mệnh như nàng vẫn nói: "Khi nào rời nó, chắc là em chết". Sơn từ đó sống với hối hận và tự trách: "Từ ngày ấy đến đây, trong cuộc sống hàng ngày, đã có những khi tôi thầm oán Huệ... Tôi nhớ lại những ý nghĩ ghen ghét hằn học của tôi với dĩ vãng của nàng. Tôi thấy mình nhỏ nhen ích kỷ. Trước khi tôi đã ước mong cho Huệ trở nên một người con gái tầm thường. Giờ đây tôi bỗng nhận ra: mình còn tầm thường hơn Huệ. Tại sao từ trước đến nay tôi cứ mải mê mần mò với cái dĩ vãng của nàng mà không để ý, quan tâm những điều tốt đẹp hiện nàng đang có? Lẽ ra tôi phải giúp nàng, phải lãnh lấy phần trách nhiệm làm nàng quên đi, xóa bỏ mọi mặc cảm tội lỗi xấu xa vẫn hành hạ nàng trong từng lời ăn tiếng nói. Lẽ ra tôi phải cùng nàng tẩy xóa vết nhơ dính trên người nàng sau lần vấp ngã, sao tôi đã chỉ mê mải xét nét đến từng vết bẩn ở nàng để mà đau đớn và làm cho nàng đau đớn với tôi? (...) Bây giờ tôi mới thấu hiểu sâu xa lời khuyên của Trị. Hắn đã hiểu tôi đến vậy được sao? Hắn đã thừa biết được rằng: tôi không thể nào có cái tình yêu thâm trầm sâu sắc biến thành tấm lòng độ lượng khoan dụng để đem cho nàng hạnh-phúc ...".
Chỗ Của Huệ xuất-bản vào thời những người đọc như chúng tôi đã đến với Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Trần Thiện Đạo, Tam Ích, ... cảm tưởng đầu tiên là thất vọng. Tuy vậy khi đọc lại mới nhận ra Doãn-Dân có một kỹ thuật dụng truyện, một ngôn từ đặc thù và những nhận xét và phân tích tâm lý nhân-vật cũng như xã hội đương thời đáng phải để ý. Nhân-vật Sơn cởi mở khi chấp nhận chung sống và yêu thương Huệ bất kể quá-khứ gái giang hồ, nhưng lại quá lý tưởng, cứng rắn, khiến khi sẵn sàng đi tìm Huệ thì nàng đã chết. Một bức tranh xã hội thời chiến với những con người khốn khổ chỉ muốn sống còn, sống qua ngày, nơi những xóm nghèo, ngõ hẹp.
. Nhưng đến năm 1972, tác-phẩm thứ hai Tiếng Gọi Thầm được xuất-bản, đã đưa độc-giả vào một thế giới văn-chương khác, nội tâm và khắc khoải hiện đại hơn. Doãn-Dân chưa kịp thấy mặt tác-phẩm thứ hai của mình đã hy sinh tại Quảng Trị, lúc mới ngoài 33 tuổi. Trong việc xuất-bản lần này, Doãn-Dân không may khi tập truyện không bao gồm Bàn Tay Cho Yến, là truyện chính đã được tác-giả dùng làm tựa chung cho bản thảo tập truyện.
Doãn-Dân qua các nhân-vật của ông trong Chỗ Của Huệ và Tiếng Gọi Thầm, luôn dò xét và theo dõi phân tích tâm lý của chính mình, đưa cái Tôi tự sự vào câu chuyện. Và đặc điểm thứ nữa là họ (tác-giả và nhân-vật của ông) hình như không bao giờ sống yên thân, không chịu nhắm mắt cho mọi diễn tiến và sự việc qua đi. Tiếng Gọi Thầm (đăng lại trong giai phẩm Văn, số 13 Tưởng niệm Doãn-Dân, 17-4-1973) là chuỗi tâm sự và độc thoại của Hiệu, một sĩ quan được cử đi tu nghiệp chung với nhiều người khác ở Hoa-Kỳ, được bắt đầu truyện với những dằn vặt, chán nản của nhân-vật chính tên Hiệu:
“Hiệu cho rằng sự chán nản bắt đầu từ nửa khuya hôm đó. Một sự chán nản đến rất tình cờ, đường đột, gần như vô lý. Vậy mà nó lại nằm ỳ, bám sát lấy tâm trí Hiệu, sao không xua gạt được, khiến cho những ngày kế tiếp của chàng hóa thành vô vị. Chàng thấy tiêu tan mọi niềm hứng khởi: những ngày sau đó nơi đất lạ chỉ còn là một chuỗi ngày sống trong nôn nao, khắc khoải. Chàng bồn chồn, nôn nóng như kẻ ngồi ở chỗ hẹn, quá giờ đã lâu, vẫn không thấy người yêu tới...”.
Đó là những mặc cảm, tự ái, lúng túng của người Việt trước người ngoại quốc, khi tiếp xúc cũng như trao đổi trong lớp học, những đôi co và nói xấu, nghi ngờ nhau, giữa các sinh viên người Việt, cả những tủn mủn của những tính toán vật chất (mua bán gì, bao nhiêu cho có lợi khi đem về nước), v.v... Độc thoại cũng như sự lười biếng (tham gia, gặp gỡ) của Hiệu ít ra cũng khiến chàng tìm được những giây phút “bình yên, phẳng lặng” của đêm “quá ư an lành, êm ả”, một thứ “lặng thinh bát ngát quanh mình”: “Đêm của chàng dày dặc những nỗi lo âu; dày đặc những nỗi bồn chồn, khắc khoải” bất cứ ở đâu trên đất nước, vì chiến-tranh, vì con người, v.v... mà chàng cứ phải đinh ninh cho là êm ả, vì Hiệu cũng vừa nhận ra nơi vùng đất an bình của xứ người, chàng không tìm thấy được nổi an tâm, tự tin cũng như những gì có thể xem là thân thuộc, cái êm ả ở đây cũng xa lạ quá khiến chàng càng thêm cảm tưởng đơn độc: “Trong đêm vắng, chỉ còn có mình mình đối diện với nỗi lặng thinh thanh thản của đất nước người, chàng bỗng cảm nghe lòng mình buồn bã; nghe như từ một chỗ nào sâu kín tận đáy hồn mình, vẳng lên một tiếng gọi thầm, tiếng gọi mơ hồ, vu vơ, chấp chới mà thật thiết tha, khắc khoải vô cùng...”. Hiệu cần sống với những cảnh vật và khung cảnh tầm thường, nhỏ nhặt mà đã quen thuộc của quê-hương, dù nơi đó chiến-tranh, bom đạn không ngừng nghỉ! Làm như chiến-tranh đã trở nên thành phần của cuộc-sống thời đó, vắng hay xa thì thấy thiếu.
Truyện Bàn Tay Cho Yến (tạp-chí Văn số 120, 1968) đưa người đọc đến mê cung của tâm lý với những “ám ảnh dằng dai, ấm ức”, những thắc mắc, ngờ vực không đầu của nhân-vật tên Nguyên về Yến, người yêu của mình, người yêu từ ấu thời mà chàng tình cờ gặp lại sau một thời gian dài xa cách. Những suy đoán khá chủ quan và bất bình thường về sự liên hệ giữa nàng với một người đàn ông già xa lạ. Với Nguyên, mỗi chi tiết của hình vóc, dáng vẻ bề ngoài của người này đều khả nghi theo ý xấu. Riêng với Yến thì Nguyên quan sát và nhận xét chủ quan thân mật hơn: “Cái cử chỉ lắc đầu, hất mái tóc ra phía sau, mặt hơi ngước lên nhìn người đối diện, vừa như tỏ ra lịch sự, chú tâm theo dõi câu chuyện, lại vừa có vẻ ngây thơ, cố ý mà vẫn duyên dáng: cái cử chỉ đó Nguyên cũng không lầm được.
Nhưng, còn hai bắp chân. Hai bắp chân thon, trắng với những sợi lông hơi dài và hơi đen hơn mức bình thường, bám sát vào da, xuôi xuống thật đều, thật mịn. Hai bắp chân đó là của Yến? Nguyên thấy xa lạ. Chúng gợi đến những cảm giác kỳ cục, không thể dành cho Yến. Chúng kêu gọi ham muốn. Chúng khuyến khích, thúc giục người nhìn tưởng tượng ngược lên phía trên ... Nguyên không tin chúng thuộc về Yến”. Phân vân, ngờ vực pha ghen tuông, tất cả những diễn biến tâm lý đó trong khung cảnh đường phố đổ nát của một vụ tấn công của Việt-Cộng đêm qua với những xác địch “nằm tênh hênh, mình trần trụi, mặc mỗi cái quần xà-lỏn”. Khi người đàn ông lạ bỏ đi thì Nguyên mới nhận ra người nữ đó chính là Yến trước nay đã đi vào đời chàng, và thường “đã như tất cả nghị lực của chàng, giúp chàng chịu đựng, vượt qua mọi khó khăn, vất vả ở đời” của một người lính luôn hành quân trong rừng sâu. Ở đây là đôi mắt của Yến, yếu tố đưa hai người đến gần nhau sau nhiều năm xa cách, rồi chiến-tranh khiến họ ít gặp nhau đến lần này giữa đạn khói (dù đã lắng), Yến nhận ra “sau mấy năm gặp lại anh, em thấy anh lạ hẳn”. câu nói làm cả hai chìm đắm vào suy tư và ... phân tích người kia.
Vì từ ngày học sinh đạp xe chở nhau đến nay, tuổi đời đã thêm và chiến-tranh cũng đã làm bao thay đổi phải đến. Nguyên thì ngơ ngác trước những thay đổi ở Yến mà chàng gán cho cái nhãn “con người thời đại”, dù đã cố gắng tự nhủ không buồn vì đó là “cái vòng biến chuyển thường tình nơi chốn thế gian ... cái vòng biến chuyển tối tăm mù mịt...”. Yến cũng vậy, những thái độ, cái nhìn của Nguyên làm nàng lo sợ, nhận không ra ... Nguyên chủ quan nghĩ rằng “Nàng đã tự tách mình ra khỏi đời Nguyên (...) đã thình lình xô đổ, phá vỡ tan tành cái nguồn an ủi to tát, lớn lao của một đời người...”. Một thứ “tan tác, rã rời, cô quạnh,... (khiến) Nguyên cảm thấy thương Yến, thương mình, thương đến xót xa, đau khổ”. Nhưng rồi Nguyên chợt nhận ra mình quá ích kỷ chỉ nghĩ cho mình và mọi suy tư, quyết đoán chỉ để thỏa mãn cái Tôi của mình. Và khi Yến cho biết lý do có mặt nơi thành phố Nguyên đang đóng quân, chàng mới vỡ lẽ ra mọi sự; chàng đã quan trọng hóa mọi sự khi mà với chiến-tranh, sống chết sẽ đến bất ngờ và với bất cứ ai, kể cả anh Hùng của Yến và cuộc-sống hiện tại của nàng. Hai bàn tay nắm lấy nhau, cho nhau – nhưng thật ra chỉ là Nguyên cho Yến vì tính tự kỷ, tự cô lập của chàng. Tình yêu cuối cùng đã chiến thắng từ bàn tay cho nhau.
Qua Sơn, Hiệu, Nguyên, v.v..., các nhân vật chính mà hóa ra phụ, nói cách khác, chỉ là cái cớ để tác-giả chúng nhìn xuyên qua không gian hiện tại để trở về một nơi chốn khác hay của quá khứ và xuyên qua đó nhớ lại và nói với người đã qua đi hay vẫn còn đó, với những nhân vật của truyện như đại diện cho từng mảnh đời hay tâm sự của tác-giả. Người đọc tìm thấy nhiều độc thoại trong truyện của ông cùng những nhớ lại, tưởng tiếc, hối hận. Cấu trúc thường gồm diễn tiến câu chuyện xảy ra xen kẽ những hồi tưởng, lý luận, phân tích, ở một số tình tiết hoặc diễn tiến được tác-giả quay chậm lùi trở lại. Ngôn từ, chính ngôn từ của Doãn-Dân khiến người đọc rung động đến tận đáy tâm thức nguyên sơ. Thật vậy, các hình ảnh, màu sắc, các biến cố, cảnh tượng, v.v... đều thoát ra như một nhắn nhủ, một hồi tưởng hay như một bức tranh đa nghĩa! Ngôn từ ở Doãn-Dân nhiều chất thơ mà không gian truyện của ông cũng ắp đầy thi vị. Bên cạnh và giữa những suy tư nội tâm và những diễn biến bất ngờ!
Qua tác-phẩm, Doãn-Dân còn tỏ lộ tâm tình phản kháng đối đầu với thực tại, với hoàn cảnh vây quanh. Nhẹ thì cũng là thái độ, lối sống không hội nhập với tập đoàn, xã hội vây quanh. Xa hơn là những ước muốn cho một xã hội công bằng và hạnh-phúc hơn cho mỗi con người. Vì chiến-tranh, đổ nát cứ quẩn quanh cuộc-sống các nhân-vật không lối thoát.
Văn tài Doãn-Dân theo thiển ý không ở Chỗ Của Huệ, mà ở những truyện ngắn đầu đời viết văn cũng như sau này. Ông tả cảnh và nhân-vật bằng tâm trí, bằng xúc động, bằng sự sống lại cái vừa xảy ra. Dùng Tôi tự sự hay viết về nhân-vật khác, dùng nơi chốn cũ hay không gian sống mới thì các nhân vật và cuộc đời tác-giả như được viết lại, nhìn lại! Có thể nói không khí văn-chương của Doãn-Dân cùng một quĩ đạo hồi tưởng và viết lại, với những Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, v.v... Ở Doãn-Dân có thể ngắn hơi hơn, nhưng như tiếng kêu thương tha thiết, muốn sống và vượt thoát những bủa vậy, rào cản, khác với cái lạnh lùng, vô cảm của một thế giới hiện sinh đen ở Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền. Ở Doãn-Dân hơn nữa, còn là một kiếm tìm một lý tưởng hoặc ý nghĩa cho cuộc-sống. Và một tin yêu vào cuộc đời. Doãn-Dân sinh hoạt văn-nghệ vào cả hai thời đệ nhất cộng hòa và thời hỗn loạn và chiến-tranh leo thang sau đó. Trong các tác-phẩm thời sau, văn-chương vốn có những đặc tính hoài nghi, hiện sinh hưởng thụ và phẫn nộ, phản chiến, là những thứ mờ nhạt trong tác-phẩm của Doãn-Dân. Trong tác-phẩm của ông, chiến-tranh vẫn có mặt nhưng như một định mệnh, con người đành cam nhận và nếu can đảm, chỉ tìm cách dàn xếp cuộc sống riêng và suy tư của mỗi phận người.
Tác-phẩm của Doãn-Dân như vậy thiên về tâm lý với những phân tích nội tâm, những độc thoại, những thăng trầm, biến đổi của tâm trạng nhân-vật đa số là những con người đương thời với tác-giả hay có liên hệ ít nhiều với tác-giả. Qua Chỗ Của Huệ và các truyện ngắn của ông, với những phân tích, độc thoại, những bàn đi tính lại như thế, người đọc có cảm tưởng tác-giả có những tâm sự, những bế tắc nào đó của một sĩ quan quân đội thời chiến-tranh ngày càng tăng cường độ.
Đã bao nhiêu năm trôi đi từ khi các tác-phẩm của Doãn Dân đến với người đọc và cũng đã gần 40 năm, Doãn-Dân đã rời bỏ thế giới này, nhưng nếu có dịp trở lại với tác-phẩm của ông - như Thư Quán Bản Thảo số đặc biệt này, người đọc sẽ vẫn trân quí khi thưởng thức lại một số những văn bản một thời đã được văn đàn đón nhận. Ở Doãn-Dân, văn-chương là cái gì còn lại, nơi lòng người, ở niềm tin tưởng vào một lý tưởng nhân sinh! Với một ngôn ngữ của sự sống trung thực và hết mình!
Nguyễn Vy Khanh Montréal, 28-2-2011
- Nguyễn Minh Nữu Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Lê Hân, Nhà Thơ Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Lê Hoằng Mưu, nhà tiểu thuyết tiên phong Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Linh Mục Thanh Lãng, nhà văn học sử Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Thơ Hà Nguyên Du Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Về Một Cuộc Hội Thảo Văn Học và Báo Chí Miền Nam 1954-1975 Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Văn Chương Có Biên Giới Không? Nguyễn Vy Khanh Tiểu luận
- Đến với Ngất Ngưởng Một Đời Mây của Phạm Hồng Ân Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Túy Hồng Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Cao Thoại Châu Nguyễn Vy Khanh Nhận định
• Phỏng Vấn Doãn Dân (Nguiễn Ngu Í)
• Nhà văn Doãn-Dân (Nguyễn Vy Khanh)
• Kỷ Niệm Với Doãn Dân (Võ Hồng)
Chân dung Doãn Dân giữa bằng hữu, cuối những năm 1960 (LỮ Quỳnh)
Chỗ nào cho Doãn Dân (Du Tử Lê)
Định Mệnh (Văn Nguyên Dưỡng)
• Giao Thừa (Doãn Dân)
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |