|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà văn Phan Nhật Nam
Little Saigon, 1993
Trong khoảng thời gian đằng đẵng giữa vũng tối tại những hầm giam đất Bắc Việt Nam, hoặc trong tình cảnh vắng lặng nơi chốn mông mênh tuyết đóng dầy vùng cực Bắc nước Mỹ, đêm thăm thẳm lái xe xuyên liên bang, tạm ghé vào một Rest Area nào đấy dọc đường I 10 hay I 5, I 35... Anh thường áp dụng một phương cách tự bảo vệ rất hiệu quả - Nói chuyện vói mình, đặt bản thân vào trong một tình huống nào đó, tìm ra một giải pháp, xong phê phán giải pháp ấy...
Quá trình "độc diễn" ấy ắt phải có tham dự của, với "mỗi người Bạn" - đơn vị cùng sống với anh suốt đời dài từ thuở anh bắt đầu có ý thức về mình vào một ngày niên thiếu, tháng 9, 1950 - thời điểm anh chính thức ra khỏi gia đình đến ngủ nhà người bạn gồm sáu anh em trai họ Cao. Với cách "sống-cùng-với-bạn" này cho đến hôm nay, gần số tuổi 60, anh đã rất nhiều lần bật kêu lên: Bạn đâu mà nhiều thế!
Trước tiên là bạn học, bởi theo học suốt Miền Nam, từ Huế vào Sài Gòn; bạn lính của đủ Bốn Vùng Chiến Thuật, hết thảy quân binh chủng Quân Lực Cộng Hòa, do lính Nhảy Dù tăng phái đi khắp các mặt trận, phối hợp với nhiều đơn vị bạn; tiếp, bạn viết báo không hề phân biệt "Nam, Trung, Bắc Kỳ"; bạn văn khoa cử, nghiêm túc như ông Cả Doãn, lẫn văn giang hồ như "Võ Sư" Hồng Lĩnh, Sa Giang Trần Tuấn Kiệt múa kiếm bằng... đũa; bạn hảo thủ quanh bàn rượu, vì đã sáng tạo những câu "danh ngôn" rất được tán thưởng: "Đời là cuộc say dài!" Và cuối cùng, bạn...tù- mà khi leo lên vùng núi ở Perth, nơi Châu Úc heo hút năm 1996, vào căn nhà có treo tấm ảnh "vô thượng sư", đã có một ông nhảy ra ôm chầm khóc nức... "Anh Nam ơi tôi ở trại 12 Hoàng Liên Sơn với anh đây".
Mỗi Người trong đám đông đảo kể trên, qua dài nửa thế kỷ - đã chiếm một vị trí riêng biệt, nhất định trong đời sống bản thân anh - mà không phải chỉ riêng đối với những nhân sự quá đỗi thân thiết, gần gũi như Nguyễn Bá Trạc, Vũ Ngự Chiêu; hoặc những người đã cùng anh chia sẻ qua một thời điểm sống-chết, như Nguyễn Lô ở Nhẩy Dù, hoặc Nguyễn Xuân Hoàng chiều ngày 29 tháng 4. 1975. Nhưng anh hằng nhớ ngay bây giờ - Viên Linh với lông mày nổi gồ, tóc dài, chiếc xe Lambretta hai mẩu xanh, trắng ở một nhà in đường Nguyễn Trãi, năm 1972. Và cũng chẳng cần phải là những người thường trực giao tiếp, chuyện trò này...
Năm 1998 mới đây, chỉ cần vừa thoáng thấy một anh chàng dong dỏng cao, đội chiếc mũ nồi đỏ là lạ bước vào nhà một người quen - anh nhớ ngay- sống lại đủ- giây phút phiền phiền bực bực của tình cảnh đang mặc áo lính nhẩy dù, đội mũ đỏ giữa một đám trẻ tuổi phóng túng ở quán cà-phê đường Lê Thánh Tôn, khu Văn Khoa, Sài Gòn 1967, 68... Những người trẻ tuổi kia là Quỳnh "lõi", Trung "sữa", mà anh chàng cao gầy nét mặt khinh bạc chua chát ấy chính là "người lạ rất quen" đêm nay, tên gọi Bùi Ngọc Tuấn, lần đầu tiên gặp lại sau hơn ba mươi năm - Hơn ba mươi năm chỉ là một chớp mắt cực ngắn khi anh sống cùng người - với mỗi người bạn.
22 Tháng Sáu, 1975 anh vào trại tù với những hình ảnh, ấn tượng thương tâm, tàn khốc của chính gia đình, bản thân, bằng hữu, của mỗi con người gọi là người Việt ở Miền Nam mà anh đã chứng kiến, sống cùng từ ngày vỡ mặt trận Ban Mê Thuột 10 tháng Ba, 1975. Nhưng bằn bặt thắm thiết, rõ nét hơn tất cả là ánh mắt lạc thần của Tạ Ký suốt buổi rượu nhạt, lạnh, im nín nơi quán cóc đường Trần Quý Cáp; của Mai Thảo mang chiếc túi vải đi mua thức ăn ở chợ Thái Bình, anh đứng nhìn những trái cà chua đỏ trên tay với tròng mắt không cảm giác, và Trần Tuấn Kiệt ngồi xao xác giữa một đống sách vở ngổn ngang trên lề đường Lê Lợi... Anh hiểu ra điều kỳ diệu cảm động: Mỗi con người đồng có phần sống và chết chung cùng nhau dù cách biệt không, thời gian, giới tính, tuổi tác, phẩm chất tâm lý lẫn vật chất. Riêng những Bạn Văn, Bằng Hữu tham dự đủ với anh từ Chữ, với danh tính, toàn thể con Người của họ - Bởi, TẤT CẢ CHỈ LÀ MỘT.
Có một điều tưởng như thừa nhưng cũng cần phải nói ra. Những đoạn viết ngắn sau hoàn toàn không do cảm tính "yêu, ghét", cũng không là đánh giá về "văn nghiệp" của những huynh đệ, bằng hữu, mà chỉ là nét đúc kết đầu tiên - cuối cùng về phản ảnh của họ trong anh, qua hiện thực thuần thành chính xác nhất - chữ viết của chính họ.
Anh "viết" những đoạn ngắn này trên đầu ngón tay.
Viết lại và bổ sung thêm nơi Minnesota, 22 Tháng Chín, 2000.
Tháng, Ngày chung của l, m, n.
Phan Nhật Nam.
LTS: Những chữ viết Hoa phần lớn là nhan đề các tác phẩm. Căn cứ các nhan đề, người đọc có thể đoán ra người được nhà văn Phan Nhật Nam nói đến là ai.
Ông nuôi Bầy Thỏ chờ Sinh Nhật,
Tháng Giêng chưa mưa Cỏ không mọc
Mang Chúc Thư leo Ngọn Đỉnh Trời
Đành ra Ngõ Sau, mở chai cô-nhắc.
Đêm Mưa Cuối Năm vuốt tóc mai
Sợi ngắn, sợi dài...
Sợi thương ai,
Sống... Viết,
Biết đâu về Viễn Phố,
Đàn ông... Đàn bà,
Đàn lai rai.
Mong Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử,
Hòa Bình chưa kịp Nghĩ,
Đi tù!
Ba Lính Nhẩy Dù còn lâm nạn,
Huống gì mỗi thân Kỳ Hoa Tử.
Yêu xong hãy làm Loạn,
Kiếm tiền về Bà Om
Cô Tuyết hết Đất Sống,
Chú Đạt đành trôi sông.
Rồi thả đời bay như Khói Sóng,
Ngồi chờ Tự Do, Lý tất Thắng,
Ba mẫu đất cằn bên sông tạnh,
Gió gờn trăng lạnh,
Ông trồng... bông!
Anh trải chiếc Chiếu Điều,
Bên Giòng Sông Định Mệnh,
Quyết tắt Lửa Ba Sính,
Hành Thiền, Gìn Giữ Ngọc.
Nào...
Đi tới đất hứa,
Bè Bà Chúa nát vỡ
Còn mỗi Con Kỳ Lân,
Nhìn Rừng Lau lệ ứa.
Người đứng trên sông Đàn Ngang Cung
Người ngồi trong tù vá chiếc quần
Người đi tập trung dáng sừng sững
Sau... Trước,
Người giữ chốt Chưởng Môn.
Ai biết... Ta về,
Ai ra đón?!
Tưởng chết đâu trên
Chiều Phá Tam Giạng,
Còn chăng tiếng dế nơi bờ lạch,
Âm vọng Tàu Đi ngỡ sóng xa,
Ngoài Trường Sa,
Đâu ngoài Trường Sa...
Bạn đã mang tiếng Kẻ Tà Đạo,
Cho Đi Trên Máy cũng chưa cao,
Hãy Ngồi Lên Cỏ Nhà Mái Đỏ,
Bất Cứ Lúc Nào...
Bụi, Rác,
Và thấy đau.
Nằm hầm Tre Gai mười bảy năm,
Đào trăm Cái Hố,
Hốt vạn tấn phân,
Một khắc nhập Cơn Sốt vỡ óc,
Thấy kiến Qua Cầu leo Con Dốc.
Quyết vì Tình Yêu cô liều Chết,
Cầm lòng nhảy hết Bản Tango
Như Nghề Làm Vua đâu phải dễ
Con Mắt không Tím, cũng lên Kinh.
Người Đi Qua Đời Tôi,
Rồi người đi trở lại,
Đêm khua khoắt Tạ Từ
Nào Đâu lần Vĩnh cửu?!
Lội qua Sông Côn gặp Nước Lũ,
Lội lại Sông Côn Mùa Biển Động
Nó cắt tai ai... Cắt gì của ông?
Đi Đường Một Chiều hãy cẩn thận.
Bác lên Núi cao đánh chiếc Khánh
Bác xuống Ruộng sâu nghiệp Viết văn
Dụng vặn xong làm báo
Bàn thấu chuyện sao xanh.
Cậu chẳng đi Di Cư
Sao Nhức Đầu Vừa Phải
Bứt một Ngọn Cỏ Bồng
Khóc nức như Cơn Mưa.
Nhìn qua Khe Cửa,
Tiếp Cánh Đồng...
Thấy Khánh nhảy dù dài ngó mông
Vẫn biết Hợp Lưu là nghĩa đúng
Hai giòng chạy ngược khó lưu thông.
Một tay hốt Tuyết
Tay cào Cỏ
Tay kia nặn Bột
Tan này mần Vua
Chẳng biết tìm chi trong Tiếng Nói
Cũng đành Đổi Mới
Chữ và Thơ.
Anh về Miền Đông, chạy thổ mộ
Thị Trấn ẩm buồn khói Phoenix
Một độ Hóa Thân táng biển lớn
Chìm sâu đáy thảm Thủy Mộ Quan.
Ngày Thơ, tinh Thơ cô cất tiếng hát
Chớp Mắt Một Thời chị Nghe Đại Bác
Phượng Đỏ làm chi, đỏ cà Sài Gòn
Thắt Giải Khăn Sô, bà cười hay khóc?!
Lờ vờ danh xưng Ký Giả Hạng Bét
Thư từ Miền Đông ngày ngày viết miết
Hết tập thứ nhất, đến tập thứ tư
Bão cứ thổi vùi... Trúc, tre không bứt.
Mở toang cửa sổ ngóng Mặt Trời
Đêm tối... Hởi Liên nào Tìm Thấy?!
Dọc Đường đi dài, Không Cô Đơn
Mặc khổ vác nứa ở Yên Bấy.
Lấm sâu Cát Lầy, chịu cơn Ung Thư
Tôi gọi tên tôi
Với Thơ,
Nơi Bếp Lửa.
Quyết xây Tình Thương,
mặc áo lính Dù
Cho Mây Bão nỗi, Gió Mùa mưa
Quanh Vòng Đai Xanh
Bóng Đêm chìm khuất
Trông giòng Sông Cửu gợi buồn xưa.
Gió cứ nổi, còi ông cứ khởi
Ông viết Thơ cố Lớn Dậy Con Người
Mấy thuở căng thân nơi Phú Quốc
Cây Tùng Trước Bão chẳng lung lay.
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Khi tôi sống, này ngực đây hãy chém
Đời ở Phương Đông hay đời Cali
Chạy đâu thoát...
Cũng phải quàn đường Beach.
Vây quanh hằng hằng Vòng Tay Lửa
Mối đau chất ngất trang sử cũ
Đậu bằng thấp, xong đậu cấp cao
Nẻo về Chính Đạo Nguyên vẩn Vũ.
Cậu ngồi tầng Cao viết bài thơ
Mân mê cũ kỹ Tờ Chứng Chỉ
Phá Núi không xong xoay đẽo guốc
Nửa đời sau còn dăm Giọt Mực.
Chàng mang dáng vóc con kỳ lân
Lập Động Hoa Vàng bên Gia Định
Chẳng hiểu cớ sao lên non, từ quan
Hóa ra cố cầm tay cô Ngọ.
Bão Thời Đại thổi qua
Ngã xạm mầu râu tóc
Bão Rớt tới Thành Phố
Lạnh thấm tận chiếu chăn
Hút một hơi ống vố
Tuổi đã quá Ba mươi
Đời nhạt thách không vợ
Tác phẩm bày bán son
Vác Ngà Voi cho lắm
Nuôi nào nỗi thằng Loan
Qua được Tám Cửa Ngục
Tiếp ngặt giòng Kinh Đen
Bầy Ruồi Xanh khuấy nhặng
Gác chật, lụn tim đèn.
Bây giờ, là Đoạn Trường
Chìm hoàng hôn phía trước,
Giữa Cồn Lá Hoa xưa
Nghe Mưa Nguồn chớp bể
Hỏi... Quê nào, họ, tên?
Thân rạn rày nẻo chợ
Nhìn quanh ruộng dâu xanh
Đập tan tròng kính vỡ
Trừng trừng dõi nơi mô.
Nỗ tiếng rền lựu đạn
Ở Lại với mối Sầu
Ký thác cõi thiên đường
Chúa, Phật, cao không thấy!!
Bác xuôi đò ngang Đêm Trừ Tịch
Hớp ngụm cà-phê ngỡ mùi máu dính
Mài mực, phóng bút tràn hơi sương Thu
Hãy trôi đi... trôi như bình Sinh...
Khôn đến thế là cùng
Đỗ xong mới đặt Yến
Mai Phương nào... nơi đâu?
Hãy báo về Người Việt.
Anh dạo Cung Trầm...
Tưởng vớ bở
Thơ viết Hai Tay mãi chưa đủ
Đi gì qua Tây, đến xứ Paris
Ở đấy,
Tình Ca bằng tiền một ly rượu đỏ.
Bạn leo Cây Bông đọc Lời Thơ
Vương Vãi những chữ nghĩa đau đớn
Thảm bạc Sa Giang rầu tận Hồng Lĩnh
Tuấn Kiệt Trần thế loạn võ trường.
Bạn tôi viết thơ không ai hay
Bạn tôi dạy học không kẻ biết
Tuấn, Ngọc... hiếm hoi sao buổi sáng
Bùi ngùi ngồi quanh quất quạnh hiu.
Hà trường... Hà trường nào Hà Tường?
Cát bão dậy mờ lung ngờm ngợp
Cùm tay không sợ, cùm thêm chân
Ghê thay Kẽ Sĩ thậm dũng lược!
Nơi Sông Mã, ông xưng Ngô Vương
Đã Toại lòng chưa...
Hóa ra lãnh búa!
Chúng đập đầu ông
Chúng bắn bụng ông
Thoát chết
Diễn Đàn ông nói tợn.
Trần trùng trục lội ngang sông Lam
Giang hồ Quán Chùa,
"Bảy-lăm" lâm nạn
Vất xe Honda, bỏ trưởng Trí Đức
Qua Mỹ, khóc vùi như nhà chịu tang.
Cô bay lên theo Ngàn Cánh Hạc
Vượt Sóng Trùng Dương tìm chỗ Sống
Mưa đi... mưa đi... mưa mãi không vừa
Đất xứ lạ vẫn Chưa giọt Thấm.
cậu Hai khai sinh lão Đốc NÔ
Già Móng, Gã Thâm gọi bằng bố
Anh em cùng vợ Công Tử Hà Đông
Chuyên hút Lucky hai hàng số
Đôi bận căng thân nơi thành Hồ
Còn trái Tạc Đạn cứ cho Nổ!
...
Ừ thôi,
Vũ Nữ về Bến Cỏ
Sài Gòn mất bặt dáng Kiều Giang...
Thầy tuốt gươm chém gẫy chân cầu
Thần Tháp Rùa tứa máu bật gào đau
Vạch ngực, nghiến răng, ghìm nắm đấm
Thành Cát Tư Đại Hãn giờ tìm đâu?
Ông "ÚT" Uyên bác, thông Thao lược
Cỡi ngọn Sóng Thần dâng lớp lớp
Vận nghiệp tù...
Hở ông, sao không rõ?
Tạm kết với bản thân
Tối ngồi đây vây dầy bóng đêm
Lưng Dựa lạnh ngắt với Nỗi Chết
Nghe ngoài kia Mùa Hè đã hết
Lửa đời lịm tắt cõi Trần Gian
Nào trời phương Nam
Nào người phương Nam...
LTS:Trường hợp bạn không biết hết - chúng tôi cũng không biết hết- tuy nhiên có thể đoán như sau (những người không biết, chúng tôi bỏ qua):
1 Mai Thảo, 2 Võ Phiến, 3 Nguyễn Mạnh Côn, 4 Chu Tử, 6 Doãn Quốc Sỹ, 7 Hà Thượng Nhân, 8 Tô Thùy Yên, 9 Nguyễn Xuân Hoàng, 12 Trần Dạ Từ, 13 Nguyễn Mộng Giác, 16 Khánh Trường, 18 Viên Linh, 19 Nhã Ca, 21 Thanh Tâm Tuyền, 24 Du Tử Lê, 25 Nguyên Vũ, 27 Phạm Thiên Thư, 28 Trần Lê Nguyễn, 29 Nguyễn Thụy Long, 30 Bùi Giáng, 32 Mặc Thu, 33 Đỗ Ngọc Yến, 34 Cung Trầm Tưởng, 35 Trần Tuấn Kiệt, 36 Bùi Ngọc Tuấn, 37 Hà Tường Cát, 38 Ngô Vương Toại, 39 Trần Lam Giang, 40 Trùng Dương, 41 Hoàng Hải Thủy, 42 Vũ Khắc Khoan, 43 Uyên Thao, 44 Phan Nhật Nam.
- Nguyễn Đình Nghĩa - Bắt Đầu... Từ Một Đêm Trăng Phan Nhật Nam Hồi ức
- Bằng Hữu, Thật Sống Đủ Ngay Đây Phan Nhật Nam Tạp luận
- Trần Danh San, Tiếng hò khoan đã tắt Phan Nhật nam Tạp bút
- Người Ở Lại Charlie ... Phan Nhật Nam Nhận định
- Trần Thiện Thanh và Bằng Hữu Phan Nhật Nam Tạp bút
• Bùi Giáng - Thi ca và Tư tưởng (Tuệ Sỹ)
• Nhà thơ Linh Phưong Và Tập Thơ "Mắt Biếc" (Nguyễn Nguyên Phưọng)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Trang Thơ (Phù Sa Lộc)
• Trần Thị NgH, viết: xạo ke , vẽ: cà rỡn (Nguyễn Lệ Uyên)
• Nhớ Nguyễn Mộng Giác. Và tưởng nhớ một thời văn (Bùi Vĩnh Phúc)
• Đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Doãn Cẩm Liên)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |