|
Dương Kiền(28.12.1939 - 17.11.2015) | Khái Hưng(.0.1896 - 17.11.1947) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Nguyễn Vỹ
Nhà thơ, nhà báo, nhà văn Nguyễn Vỹ, quê làng Tân Hội, quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Từ cố hương, ông dấn thân vào nghiệp cầm bút mà trong bài thơ tráo phúng của ông:
“Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời: kiết vẫn kiết”
Tuy than thở như vậy nhưng Nguyễn Vỹ theo cái nghiệp trong suốt bốn thập niên.
Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở quê, lên trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn (1924-1927), tham gia bãi khóa để tang nhà cách mạng Phan Châu Trinh nên bị đuổi học, phải ra Hà Nội học tiếp. Sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Vỹ dạy học tại trường trung học Thăng Long, Hà Nội. Vừa dạy học, vừa làm thơ, viết văn, viết báo... Nguyễn Vỹ là tên thật, các bút hiệu khác: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió và nghiệt ngã nhất với nghề báo.
Nguyễn Vỹ cộng tác với nhiều tờ báo lớn bấy giờ như: Tiếng Dân (Huế), tuần báo Đông Tây, Văn Học tạp chí ra ngày 1/12/1936 (tiền thân của Phổ Thông bán nguyệt san), tuần báo Phụ Nữ, L'Ami du Peuple, La Patrie Annamite... Năm 1937, Nguyễn Vỹ ra đời tuần báo Le Cygne, đả kích chính sách thực dân Pháp, nên chỉ phát hành được 6 số thì báo bị đóng cửa, bị tòa án Pháp ở Hà Nội kết án tù 6 tháng và đóng phạt 3.000 đồng.
Sau khi chiếm Đông Dương, năm 1942 Nhật bắt giam ông ở ngục Trà Khê (Quảng Ngãi), sau đó đày ông đến Củng Sơn (Phú Yên), sau khi Nhật thất trận, đầu hàng Đồng minh, Nguyễn Vỹ mới được trả tự do. Ra khỏi tù, Nguyễn Vỹ về quê Quảng Ngãi sống một thời gian.
Năm 1946, Nguyễn Vỹ vào Sài Gòn sáng lập nhật báo Tổ Quốc, đả kích chính sách thực dân, nên bị đóng cửa! Năm 1948, Nguyễn Vỹ lên Đà Lạt lập tuần báo Dân Chủ cũng bị chính quyền rút giấy phép!
Năm 1952, Nguyễn Vỹ lại về Sài Gòn sáng lập nhật báo Dân Ta, nhưng chưa được một năm thì bị đóng cửa. Năm 1958, Nguyễn Vỹ sáng lập bán nguyệt san Phổ Thông, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho đến khi mất trong tai nạn giao thông cuối năm 1971.
Tác phẩm tiêu biểu:
Văn:
Đứa Con Hoang (tiểu thuyết) Hà Nội, 1936. Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Hà Nội, 1937. Chiếc Bóng (tiểu thuyết), Hà Nội 1941. Chiếc Áo Cưới Màu Hồng (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957. Giây Bí Rợ (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957. Hai Thiêng Liêng I & Hai Thiêng Liêng II (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957, Mồ Hôi Nước Mắt (tiểu thuyết), Sài Gòn 1965. Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (ký ức văn học), Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1970… Tuấn, Chàng Trai Nước Việt I & Tuấn, Chàng Trai Nước Việt II, Sài Gòn, 1970. Đây là biên niên sử của đất nước nửa đầu thế kỷ XX. Ông có trí nhớ rất tốt để ghi lại từng chi tiết xảy ra trong giai đoạn lịch sử.
Thơ:
Tập Thơ Đầu - Premières Poésies (thơ Việt và Pháp), Hà Nội, 1934. Hoang Vu (thơ) Sài Gòn 1962, Buồn Muốn Khóc Lên (thơ), Sài Gòn 1970…
Cuộc đời làm báo của Nguyễn Vỹ “ba chìm bảy nổi” nên luôn luôn nghèo vẫn ở nhà thuê (vợ ông làm hiệu trưởng trường mẫu giáo Trí Hương ở Đà Lạt) thế nhưng ông từ chối nhận giải nhất Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc thời Đệ Nhất Cộng Hòa cho bộ tiểu thuyết Hai Thiêng Liêng hiện kim lúc đó khoảng 60 ngàn đồng. Nguồn tin cho rằng ông là nhà hảo tâm, làm báo được đồng nào ông đều trợ cấp cho những học sinh, sinh viên nghèo. Mỗi mùa mưa bão miền Trung, ông lại cùng bạn trẻ ở các thi văn đoàn Thằng Bờm đi huy động quyên góp từng lon gạo, từng chiếc áo cũ để mang về trợ giúp bà con miền Trung.
Chuyến đi cuối cùng của ông là về Cần Thơ thăm người bạn. Trên đường về ghé Bến Tre thăm người bạn thân thiết là ông Đạo Dừa (Nguyễn Thành Nam). Khi về tới địa phận Long An thì bị tai nạn. Đó là ngày 4/2/1971.
Tang lễ nhà thơ, nhà báo, nhà văn Nguyễn Vỹ được tổ chức tại chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và được an táng tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Năm 1983, nghĩa trang di dời để làm công viên, di cốt nhà thơ được hỏa táng đưa về chùa Giác Ngạn.
Thời học sinh, tôi thích tờ Phổ Thông tạp chí, Giám Đốc, Chủ Bút: Nguyễn Vỹ, số I ngày 1/11/1958. Vào năm 1960 mục Đáp Bạn Bốn Phương của Diệu Huyền rất ăn khách. Sau nầy Nguyễn Vỹ sáng tác Thơ Lên Ruột ký bút hiệu Diệu Huyền, và mục “Mình Ơi…” ký tên Cô Diệu Huyền đủ chuyện trên trời dưới đát, Đông Tây, kim cổ rất thú vị. Tác phẩm Tuấn, Chàng Trai Nước Việt của Nguyễn Vỹ từ bản thân ông trải qua thăng trầm của bản thân và lịch sử qua hình ảnh Tuấn.
Mùa Thu California bắt đầu, nhân bài thơ Nam Thu Hòa Khúc của nhà thơ Nguyễn Vỹ, tôi viết đôi dòng về ông để tưởng nhớ đến người đã an giấc nghìn thu.
Little Saigon, September 2024
Vương Trùng Dương
(*) Nam thu hoà khúc
Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng?
Lá ngập tơi bời đến ải quan!
Cây cỏ ngậm ngùi sầu thế hệ,
Nước non vương vấn hận thời gian.
Vườn thơ vắng bướm, hương tàn tạ,
Cánh nhạn tung mây, gió phũ phàng!
Ôi mảnh hồn Trăng từ vạn kỷ,
Gieo chi đất bụi một màu tang?
1960
Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc Vương Trùng Dương Tưởng niệm
- Đọc tác phẩm “Người Mẹ Tìm Con” của Nhà Văn Lê Đức Luận Vương Trùng Dương Nhận định
- GS Trần Huy Bích, Người Nặng Tình Với Non Sông & Chữ Nghĩa Vương Trùng Dương Nhận định
- Hồi Ký Tuổi Thơ & Chiến Tranh (1945-1950) của Võ Đại Tôn Vương Trùng Dương Nhận định
- Thiên Chức Nhà Giáo, Tâm Hồn Nhà Văn: Bà Tùng Long Vương Trùng Dương Nhận định
- Tác Phẩm Thérèse Desqueyroux của François Mauriac qua bản dịch của T.Vấn Vương Trùng Dương Giới thiệu
- Kỷ Niệm Với Song Ngọc, Hà Nội Ngày Tháng Cũ Vương Trùng Dương Nhận định
- Phương Tấn, Nàng Thơ Với “Di Bút Của Một Người Con Gái” Vương Trùng Dương Nhận định
- Nhà giáo Hà Mai Anh & tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng Vương Trùng Dương Nhận định
- Hà Huyền Chi, Người Dệt Thơ Trên Hoa Dù Vương Trùng Dương Nhận định
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Thơ và Con Người Nguyễn Vỹ (Thu Nhi)
• Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ (Viên Linh)
Nguyễn Vỹ (Nhị Linh)
Văn chương miền Nam: Thằng Bờm và Tuổi Hoa (Nhị Linh)
Nguyễn Vỹ, Nhà hoạt động văn hóa không mệt mỏi (Đào Đức Nhuận)
• Lan Khai (Nguyễn Vỹ)
• Lê Văn Trương (Nguyễn Vỹ)
• Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Vỹ)
• TchyA Đái Đức Tuấn (Nguyễn Vỹ)
• Khái Hưng (Nguyễn Vỹ)
• Nguyễn Đức Nhân, Mây Trên Đỉnh Tà Ngào (Nguyễn Minh Nữu)
• Phùng Quán thèm được làm người (Trần Mạnh Hảo)
• Một tách cà-phê cho hai người (Lê HỮu)
• Phù Sa Lộc, Quay Ngược Mình Để Thấy Rõ Mình Hơn (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Trang Thơ (Phù Sa Lộc)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |