Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh về thời Lê mạt. Trước Nguyễn Du, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Đến thân phụ là Nguyễn Nghiễm đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm đến chức Đại tư đồ, tước Xuân quận công. Ông này sinh hạ mười tám con trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm đến chức Tham tụng (đời chúa Trịnh Khải). Người con thứ hai là Nguyễn Điều đậu Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn tây. Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy. Ông là con một bà thứ thất người Đông Ngàn (Bắc Ninh), sinh ra năm Cảnh Hưng 26 (1765), hai năm trước khi chúa Trịnh Doanh từ trần để quyền lại cho Trịnh Sâm. Nghiên cứu việc ra đời của bậc thi hào tương lai, nhà văn học sử thường ưa ghi nhận điều này: Ông thác sinh ở đất Hồng lĩnh, Lam giang là nơi "địa linh nhân kiệt" mẹ lại quê ở Bắc Ninh là đất phong nhã, hợp với giòng máu anh tuấn của cha đã tạo nên một con người thông minh, đa cảm hào hùng. Con người ấy lại sinh ra đúng vào một lúc để chứng kiến bao sự bể dâu của đất nước.
Năm ông lên 9 tuổi, cuộc chiến tranh với miền Nam tái phát, chính thân phụ phải theo lệnh Trịnh Sâm phụ lực tướng Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào lấy Phú Xuân (1774). Những ngày thơ ấu đó có lẽ ông đều sống và học tập ở Thăng Long. Năm ông 17 tuổi (1782), Trịnh Sâm chết, sau đó là loạn Kiêu Binh. Kiêu Binh từng kéo đến phá nhà anh ruột ông là Tham tụng Nguyễn Khản, làm cho ông này phải bỏ chạy lên Sơn Tây với em là Nguyễn Điều. Đất Bắc đã rối loạn lắm. Tuy vậy, còn thì giờ để ông sửa soạn thi Hương và năm 19 tuổi (1784) đậu tam trường. Hai năm nữa thì Tây Sơn ra Bắc. Tình hình khi ấy có lẽ đã khá khẩn trương. Nguyễn Du theo con đường của nhiều tử đệ công khanh thời ấy đã nhảy vào nghề võ, làm thủ hiệu (tựa như lãnh binh) ở Thái Nguyên. Năm 1786, họ Trịnh đổ. Năm 1789, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba dứt ngôi nhà Lê. Nguyễn Du, khi đó vẫn ở Thái Nguyên, mạnh bạo chọn con đường của ông: đánh Tây phục Lê.
Không kịp theo vua Chiêu Thống sang Tàu, ông lẻn về quê vợ ở Thái Bình, cùng người anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn tụ hợp dân binh mưu cuộc khởi nghĩa nhưng bị dẹp tan ngay. Khi ấy vua Quang Trung đã lên ngôi vững vàng ở đất Bắc, song ở miền Nam, Tây Sơn thua to, Nguyễn Ánh đã lấy lại được đất Gia Định. Nguyễn Du thất bại ở Quỳnh côi mới nẩy ý nghĩ lẻn vào Thanh Nghệ, toan tìm đường vô Nam, mượn sức chúa Nguyễn chống lại Tây Sơn. Ông đi đến Vinh thì bị ngăn lại và cầm tù một thời gian. Sau nhờ viên Trấn thủ Tây Sơn ở Nghệ An (Thân quận công) là người quen biết của một anh ông (Nguyễn Nhĩ) nên ông được tha. Sau đó ông trở về làng, sống trong thiếu thốn và chán nản, thường tiêu khiển bằng ngao du săn bắn, khắp vùng Hồng Lĩnh thường chỗ nào cũng có vết chân, tự hiệu là "Hồng Sơn liệp hộ".
Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất Nam Bắc, xuống chiếu chiêu dụng các cựu thần nhà Lê, các tử đệ cố gia có khoa danh. Nguyễn Du 38 tuổi ở trong số được tân triều vời. Ông ra ứng chiếu. Thoạt đầu ông được bổ tri huyện Phụ dực, ít lâu sau thăng tri phủ Thường tín. Năm Gia Long 3 (1806) ông cáo bệnh về nhà, được một tháng lại bị triệu ra, lĩnh chức Đông các đại học sĩ. Năm Gia Long 8 (1809) bổ làm Cai bạ (Bố chính) Quảng bình. Năm Gia Long 12 (1813) thăng Cần chính Đại học sĩ, sung chức chánh sứ sang Tàu. Đến khi về được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Năm Minh Mạng 1 (1820) lại có chỉ sai ông đi sứ Tàu nữa, nhưng chưa kịp đi thì mất, ngay tại kinh đô, thọ 56 tuổi.
Hai câu thơ nôm của Nguyễn Du trong lòng một chiếc dĩa Tàu (*)
Nền nếp văn chương lại bẩm tính thông tuệ, nên sự học của ông sớm vững chắc và uyên bác. Lại thác sinh vào nơi phú quí ăn chơi, nên con người tài hoa cũng luyện thành từ tấm bé, rất sành các nghề cầm kỳ thi họa. Nhất là nghề thơ càng là sở trường. Thời Nguyễn sơ, người Tàu nói về thi gia nước ta thường khen "An nam ngũ tuyệt", trong số có Nguyễn Du. Thơ Hán của ông để lại tương truyền có:
- Thanh Hiên tiền hậu thi tập
- Nam trung tạp ngâm
- Bắc hành thi tập.
Đặc biệt ông lại có tài về quốc âm. Cũng là do ảnh hưởng của thời đại (thời Lê mạt văn nôm phát triển). Và ảnh hưởng của trong nhà nữa. Nguyễn Nghiễm từng được biết với bài phú Khổng tử mộng Chu công, Nguyễn Thiện nổi danh với Hoa Tiên ký. Nguyễn Huy Hổ có Mai đình mộng ký.
Ông Hoàng Xuân Hãn đã nhìn ra ở đó sự xuất hiện của tất cả một văn phái quốc âm. Riêng với Nguyễn Du, nay hiện còn lại:
- Bài thác lời trai phường nón
- Bài văn tế sống Trường lưu nhị nữ
- Bài văn cúng Thập loại chúng sinh hay Chiêu hồn ca
- Truyện Kiều hay Đoạn trường tân thanh.
Bài thứ nhất (48 câu) để tạ lòng một cô phường vải, bài thứ hai (98 câu) tỏ nỗi uất hận vì mối tình đầu với hai cô gái phường vải khác, đều là những áng văn tuổi trẻ của Nguyễn Du làm ra khoảng 20 tuổi đầy khí vị tình ái lãng mạn, nghệ thuật câu lục bát chưa được vững vàng, chỉ là những bước sơ tập của một thi tài. Hai áng văn sau xứng danh kiệt tác, chúng ta sẽ để ý nghiên cứu, nhất là truyện Đoạn trường tân thanh.
Chú thích:
(*) Nhiều sách kể rằng Nguyễn Du khi sang sứ Tàu có ghé thăm một lò chế đồ sứ. Chủ nhân xin ông vài chữ để đề vào một kiểu đĩa mai hạc. Ông viết cho 2 câu thơ nôm trên (Nghêu ngao vui thú yên hà, Mai là bạn cũ hạc là người quen). Đĩa này sau bán sang ta, hiện còn lưu lại ở viện Bảo tàng Khải Định (Hình rút trong B.A.V.H. 1929).