|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Cung Trầm Tưởng, cầm lá sớ thơ, và Viên Linh tại trụ sở Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại trên đường Bolsa, quận Cam, 1992. (Hình: Phan Diên)
Mỗi sinh nhật tôi lại nhớ đến bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng. Mỗi đêm mưa tôi lại đọc bài thơ ấy của Cung Trầm Tưởng. Đó là mùa mưa Sài Gòn. Đó là Sài Gòn của chúng tôi. Đó là những năm cuối thập niên ’50 – những năm của Hiện Sinh, của bản ngã, của đời sống thanh niên thành phố vừa vào tuổi hai mươi, của những đêm khuya ngã tư đèn vàng, những đầu tháng tạp chí văn chương. Của khói thuốc và sách vở. Của những buổi hẹn hò ở một góc sân trường; những cuộc tiễn đưa nơi sân ga bến buýt. Của vào đời và tan tác.
Mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi.
Mưa hay trời cũng thế thôi
Đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang.
Hồn tu kín xứ đa mang
Sớm hao tâm thể chớm vàng lượng xuân.
Niềm tin tay trắng cơ bần
Cuối hoàng hôn lịm bóng thần tượng xưa.
Đêm nay trời khóc trời mưa
Gió lùa ẩm đục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về đường tôi.
(Đêm Sinh Nhật, Cung Trầm Tưởng)
Đó là chúng tôi. Đó là Sài Gòn của chúng tôi, những năm đầu của cuộc vận động đổi mới chữ nghĩa, dăm ba thần tượng sụp đổ, một vài trường phái manh nha. Chúng tôi ghi nhận trong bất cứ cuộc vận động văn chương nào, Thơ đi trước. Thơ bao giờ cũng đi trước; thi sĩ là kẻ tiền-hô. Có bao giờ chưa, một cuộc vận động văn học thi sĩ lại không ở hàng đầu? Một biến động thời thế thi sĩ lại không biến đổi trước nhất?
Giữa thập niên ’20 Phan Khôi là người phá thể [với bài thơ Tình Già]. Đầu thập niên ’30 Đoàn Phú Tứ là kẻ xoay vần [với nhóm Xuân Thu Nhã Tập]. Để hình thành nền Thơ Mới. Ra ngoài đất nước, cũng chính là Thơ trước nhất đã dựng lại một nền văn học. Vũ Khắc Khoan làm thơ. Mặc Đỗ làm thơ. Võ Phiến làm thơ. 1975, những nhà văn phải làm thơ. Đương nhiên các thi sĩ không làm gì khác là làm thơ. Trong khi các nhà văn phải làm thơ vì biến động trước mắt thì các thi sĩ đã làm thơ rồi, vì biến động đã ở dưới chân thi sĩ, từ lâu, trên các nẻo đường xuôi ngược của thi sĩ, không ngừng.
Không biết làm thơ, vào trong tù, ai cũng có thể làm thơ. Thế thì khi thi sĩ vào tù, thi sĩ thường thường ở tù lâu hơn các ông tướng, và các thứ. Vào tù binh tướng bị lột khí giới; vào tù, khí giới của thi sĩ còn nguyên. Bạn tôi cũng vậy. Cung Trầm Tưởng cũng vậy, trước sau gì cũng vẫn làm thơ. Ở ngoài đời là một tay làm thơ. Tựa bên phải thì làm thơ bằng tay phải; tựa bên trái thì làm thơ bằng tay trái. Vào tù, hai tay bị còng, thì có “Lời Viết Hai Tay.” ** [**nhan đề một thi phẩm của CTT.]
Từ cuối thập niên ’50 trở đi, Lục Bát Việt Nam không bao giờ còn như xưa nữa. Hình sắc, âm điệu, ngôn ngữ của hai dòng 6-8 đó – như một thôn nữ khăn vuông mỏ quạ váy quai cồng của đồng chiêm lúa mùa nhiều thế kỷ trước chốn Phong Châu – hiện thành Vệ Nữ và Hoàng Hậu, hiển lộng và rực rỡ – nhưng lại có chút man dại của bản năng và nhịp thở phố xá, qua thơ Cung Trầm Tưởng:
Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai gió giật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
…Chờ em anh để râu xanh…
(Râu Xanh, Cung Trầm Tưởng)
Trước 1975. Một hôm Cung Trầm Tưởng đến tòa soạn Tạp chí Thời Tập của tôi trên đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn rủ tôi đi Cần Thơ dự “Đêm Con Đuông.” Con đuông là một thứ nhộng của xứ dừa, họa sĩ Ngy Cao Uyên ở Cần Thơ lấy tên Con Đuông đặt tên cho nhà xuất bản của anh, in ra những tập thơ mỏng, bìa là một họa phẩm nguyên tác nhỏ bằng lòng bàn tay; “Lục Bát Cung Trầm Tưởng” được in ra trong khuôn khổ này. Tôi còn nhớ chuyến bay chỉ có 4 người, kể cả phi công. Khi chiếc Bà Già bay trên ruộng rừng đất nước, nhìn ngắm những hố bom B.52 phía dưới, chúng tôi nói về những tàn phá của cả thù lẫn bạn. Rồi cũng không quên nói về thơ. Đêm ấy trên những chiếc giường sắt trong căn cứ Không Đoàn Vận Tải (mà ông họa sĩ chủ trì là trung tá chỉ huy trưởng), chúng tôi nói về màu sắc trong thơ.
1992. Nhớ Cung Trầm Tưởng, không có việc gì, với tấm bản đồ thành phố Paris trong tay, tôi đã lên một con tầu và bước xuống một sân ga: “Ga Lyon đèn vàng.” Sau này qua điện thọai, tôi kể anh nghe tôi xuống sân ga đó không phải để kiểm chứng xem bạn ta có phải là người đi xa về rồi nói chuyện linh tinh hay không, như ở ga Lyon đèn trắng lại nói nó đèn vàng hay không, mà tôi xuống đó, để đứng ở ga Lyon và ngó lên mấy ngọn đèn, nhớ bạn, và đọc thơ bạn và hát nhạc Phạm Duy ở đấy. “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế.” Ngược lại, cũng qua điện thọai, Cung Trầm Tưởng thuật lại cho tôi nghe, khi còn ở Sài Gòn, sau 10 năm ở tù Cộng Sản ra, đang lóng ngóng chuyện rời bỏ quê hương, thì nghe tôi nói về anh và về Thơ Lục Bát của chúng tôi trên đài Radio France International.
Bài nói trên Đài RFI ấy chính là trong cái dịp tôi bước xuống ga Lyon vào năm 1992 đó. (Dường như là do Thụy Khuê phỏng vấn.) Và ở hai phía Địa Cầu, như thế, cái tiếng Lục và cái tiếng Bát mà chúng tôi làm ra, chúng tôi ngâm lên, đã cùng được nghe thấy, trong một phút một giây của thời gian thật:
Hồn tôi cái đĩa thâu thanh
Tròn nguyên nét nhạc trung thành ý ca
Đồ rê mi phá sol la
Ngẫm từng âm điệu nghe ra trời buồn.
“Cơ bản, Thơ vượt lịch sử.” Cung Trầm Tưởng nói. Tôi đồng ý. Lịch sử vốn tái diễn không ngừng. Thơ vốn hồi sinh cùng thi sĩ. Lịch sử lập lại. Thơ không lập lại. Thơ xướng danh Lịch Sử và sang vòng chuyển hóa mới. Hiện tại của Lịch sử là nhà tù: tập thơ “Lời Viết Hai Tay” là dĩ vãng của thi sĩ.
(Viên Linh, Lời bạt cho thi phẩm của Cung Trầm Tưởng, 1992). Bổ sung 2012.
- Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh Viên Linh Nhận định
- Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan Viên Linh Thơ
- Bạch thư Phạm Huấn Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi Viên Linh Nhận định
- Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Viên Linh Hồi ký
- Nỗi âu lo của nhà giáo Bảo Vân Viên Linh Hồi ký
- Con hạc của vua Tự Đức Viên Linh Giai thoại
- Tản Đà Và Hai Chữ Non Nước Viên Linh Hồi ký
- Hoài Điệp Tử, nhà văn nhà báo chết trong ngọn lửa Bolsa Viên Linh Hồi ký
• Nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tác giả ‘Mùa Thu Paris,’ qua đời ở tuổi 90 (Khôi Nguyên)
• Lục bát Cung Trầm Tưởng, một đóng góp lớn cho văn học (Du Tử Lê)
• Cung Trầm Tưởng ra mắt ‘tặng phẩm cuối đời’ biếu người yêu thơ (Lâm Hoài Thạch)
• Lục Bát Sinh Nhật (Viên Linh)
• Cung Trầm Tưởng – Tình sâu nghĩa nặng (Bùi Ngọc Tuấn)
• Cung Trầm Tưởng, Sự Thăng Hoa (Nguyễn Đức Tùng)
• Nguyên văn bài thơ “KHOÁC KÍN” của Cung Trầm Tưởng (Trần Văn Nam)
• Cung Trầm Tưởng - tiếng Việt, lời thơ (Bùi Ngọc Tuấn)
• Bài Phát Biểu Nhân Dịp Nhà Thơ Cung Trầm Tưởng Ra Mắt Sách Ở Quận Cam (Trần Văn Nam)
• Hình Dung Một Vòm Trời Nước Pháp Qua Thơ Cung Trầm Tưởng (Trần Văn Nam)
- Nói chuyện với nhà thơ Cung Trầm Tưởng (Thụy Khuê)
- Cổ dao Cung Trầm Tưởng (Thụy Khuê)
- Cung Trầm Tưởng (RFA)
- Hành Trình Vào Thế Giới Thơ Cung Trầm Tưởng (Tản văn của Phan Ni Tấn)
- Lục bát Cung Trầm Tưởng (Du Tử Lê)
- Phỏng vấn Cung Trầm Tưởng (VIETHOME:)
- Lần đầu đọc thơ Cung Trầm Tưởng (Viên Linh)
• Đọc Sách "Tragedy From A War Off Design" của Văn Nguyên Dưỡng (Cung Trầm Tưởng)
- Ngôn Ngữ Và Không Gian Thơ Du Tử Lê
- Thơ Cung Trầm Tưởng (thivien.net)
• Người Lính Già Oregon Đã “Giã Từ Vũ Khí” (Huỳnh Quốc Bình)
• Tình xuân biển đảo: Tự sự về trường ca Quần-đảo-tráo-tên (Đỗ Quyên)
• Lạc Mất Mùa Xuân (Huỳnh Liễu-Ngạn)
• Vài Nhận Xét Về Hai Bài Thơ Của Quách Tấn (NP Phan)
• Trang Thơ (Huỳnh Liễu Ngạn)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |