|
Duy Thanh(11.8.1931 - 24.11.2019) | Tuệ Sỹ(15.2.1943 - 24.11.2023) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Bùi Giáng là một loại thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về dòng thơ này. Nhắc về cái tuyệt đỉnh ngôn ngữ trong thi ca Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những hàng văn tẻ chán, rối mù trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.
Hay dở dở hay: Đây là đầu mối của các bình giá về thơ họ Bùi!
Đa số các nhà phê bình và nhà thơ đều đánh giá thơ Bùi Giáng đến mức cạn nguồn tiếng Việt ở độ ca ngợi. Tôi theo "phe" này, nhưng muốn ngợi ca bằng lời nôm na: thơ Bùi Giáng, một là: hay ơi là hay; hai là: không phải chỉ có hay! "Phe" chê không nhiều, trong các năm 1999-2003 có thể thấy điển hình là Trần Hữu Thục, Thụy Khuê, Phan Nhiên Hạo...
Giá có ai cầm bút dọa... giết, tôi không thể nào “làm bạn” với Trần Hữu Thục ở câu: "Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay –, còn lại hầu hết thơ ông đều dở", "Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông", cũng như với Phan Nhiên Hạo: " (…) biết rõ, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. (...) Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng, và phảng phất một không khí cổ.” Và ít san sẻ được cùng Thụy Khuê: "Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng". Vâng, sự nhàm lặp là có. Nhưng với cái "thằng" nhàm lặp chịu trách nhiệm ở nhiều câu dở, cũng khó có thể thể thổi tội lên như vậy. Mươi năm trước, trong một dịp chuyện phiếm với Phạm Duy, tôi nhắc đến thơ họ Bùi với ý ca, họ Phạm gật gù vẻ cho qua, rồi không đừng được ông hơi nhăn mặt: "Nhưng lắm câu nhàm! Lặp lại quá, cậu ạ!"
Cách đây vài tháng, cũng trong một lần các văn hữu vãn chuyện, “binh tình” còn tệ hơn với Trần Nhuận Minh! Cái nhàm lặp ở cấu tứ, nhịp điệu, ngôn từ trong thơ Bùi Giáng, rất nhiều người nhận ra. Nguyễn Hưng Quốc đã có bình giá mà tôi nghĩ có thể như một lý giải khả ái: "Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay". Thật tiếc cho Thụy Khuê khi chị tiếc cho một cái tiếc xây nên tất cả "ngôi nhà Bùi Giáng", tác phẩm cùng con người: "Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại". Ô hô! Nếu như Bùi quân đừng thế này phải thế kia (đóng complet, leo lên mạng mà chat mà mail) thì thơ của ông đã... giáng trần mất rồi!
Thưởng thức thơ, luôn bất nhất như với ẩm thực. Ngay cả ở những kẻ cùng “gu”. Chỉ vì "mùi sầu riêng" ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ hiểu. Như, trong bài Tặng Quán Phở Huyền Trân:
"Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
( . . . )
Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là"
khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên, "Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy", thì cũng, thú thật, tôi hiểu tại sao rồi.
Sẽ rất thú vị về những phát hiện vết đen trên mặt trời thi ca mà các nhà phê bình mô phạm - các chiêm tinh gia, thiên văn gia với đầy đủ kính viễn vọng - vô tình hay cố ý, hoặc bị ràng buộc bởi cách thức phê bình đã không nhận ra: Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay. Đó không phải dọn vườn thơ của các thi sĩ đã mang thương hiệu. Càng không là hành vi "lật đít tượng" hay "đốt đền"! Đó cũng không hẳn "nói đến cái dở thì cũng chỉ cốt làm nổi cái hay" (Hoài Thanh). Tìm hiểu điều dở trong thơ ở các thi nhân, xét cho cùng, là – vươn qua các thi nhân cụ thể – để tới cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của nghệ thuật thi ca.
Với các bậc kỳ tài, không ít cái dở tệ trong thơ có thể chấp nhận được. Nhưng thơ rất đỏng đảnh; lại có những cái dở thơ không thể nào cho phép! Một nhà thơ tầm vóc đến thế mà còn hạ một chữ thơ, một câu thơ, một bài thơ như thế ư? Điều đó nằm ở đâu: Đề tài? Nội dung? Chi tiết? Câu chữ? Cấu tứ? Hình tượng? Nhịp điệu? Âm vần? Xúc cảm? Tất cả đều có thể. Và ở từng tác giả, từng câu, bài cụ thể chúng hiện ra mỗi cách, khi hiển hiện khi ẩn tàng. Đó là cái dở vô cớ; nói nôm là lãng xẹt, vớ vẩn. Phân tích từng nhà thơ với văn phong, tính cách, đời tư gia cảnh, môi trường xã hội… ta có thể tiếp cận nguyên do của các cái dở vô cớ. Nói chung, với các nhà thơ tránh được lỗi này, ta gọi họ là những người biết tự biên tập thơ. Làm thơ là khó, là phiêu lưu; biên tập thơ là chuyện sống chết! Chiến công trong các chuyện sửa thơ thường được lưu truyền như giai thoại, thậm chí huyền thoại.
Bạn bè chúng tôi hay bày trò lập "Top” cho thơ Việt hiện đại. Đương nhiên kết quả rất khác nhau. Tùy sân chơi bạn chơi. Nếu bạn chơi có nhiều dân miền Nam, tôi thấy rằng Bùi Giáng thường có trong "Top-10", thi thoảng lọt vào "Top-7"; rất hiếm trúng "Top-5". Trong các thi nhân giữ bảng đó, tôi thấy Thanh Tâm Tuyền, Huy Cận ít có những cái dở vô cớ. Xuân Diệu, Nguyễn Bính rồi Bùi tiên sinh nhà ta là các đấng tài hoa kiêm các đấng "hơi bị nhiều" các cái dở vô cớ, các câu, đoạn, bài vớ vẩn. Thậm chí vớ va vớ vẩn! (Ở đây không xét những gì gọi là "phục vụ chính trị" đưa đến cái dở vô cớ của một số vị nói trên. Nhấn mạnh: quan hệ giữa chính trị và chất lượng thơ lại là đề tài khác. Ta đang hàm ý việc nhiều nhà thơ vốn không hợp gu chính trị thì dễ có cái dở vô cớ ở thơ trong khi bị/được phục vụ chính trị tức thời).
Còn nữa, và tương tự: Cái dở trong các bài thơ hay. Tìm hiểu điều dở, điểm bất cập trong những thi phẩm đã được xếp hạng kinh điển xét cho cùng, là – vươn qua các thi phẩm cụ thể – để đạt cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của thi ca.
Hàn Mặc Tử từng rằng, "Người thơ phong vận như thơ ấy". Với tôi, Bùi Giáng có một đời thơ; và trên hết, còn có những bài thơ, có một trường thơ vĩnh cửu trong thi ca tiếng Việt. Nhưng, gần như chắc chắn, khó có vị thế cao trong thi ca thế giới. Nếu nói về mặt văn-hóa-thơ-ca thì có thể. Đỉnh là đằng khác! Thơ Bùi Giáng đã và mãi là một thách đố khủng khiếp cho đề tài dân tộc và nhân loại trong ngôn ngữ và trong thơ. Cũng như Truyện Kiều của Nguyễn Du, là một thách đố dai dẳng. Nhưng ở Truyện Kiều, về hình thức ngôn từ và ngữ pháp thơ, cái dân tộc không quá khu biệt với cái nhân loại như ở thơ Bùi Giáng. Không nhẽ tôi lập lại ở đây mệnh đề cửa miệng của văn hóa Việt với Phạm Quỳnh đệ nhất phát ngôn nhân: Thơ Bùi Giáng còn, tiếng Việt còn?
Các tiểu phẩm, dịch phẩm, biên khảo, sách giáo khoa của thi sĩ dường như chỉ mang giá trị tinh thần, không nhiều người tìm được giá trị sử dụng. Đọc ít nhiều văn xuôi của ông, tôi chẳng biết dùng nó vào việc gì, nhưng đinh ninh chúng là thứ của chìm cho hành trang sáng tác, suy tư của mình. Phan Nhiên Hạo thì bảo: "Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. (…) kiểu văn chương "phiêu bồng" của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi." Lứa đàn em Phan Nhiên Hạo bây giờ, chắc chịu tốn hàng giờ sục xạo các trang mạng hơn là đọc những đoạn văn Bùi Giáng nửa đùa nửa thật, nửa thấp nửa cao. Nên ta sẽ giật mình trước chi tiết Nguyễn Hữu Hồng Minh đưa ra: "Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một đặt đề, một định đề nào cho nghệ thuật". Phải chăng chính tiên sinh nhận ra, hơn ai hết, độ lỏng lẻo, bất nhất, tang bồng trong các áng văn thơ đó và ngài ngại bị cật vấn? Hay vì ngài là cái nòi không muốn đặt đích cho công việc, nên không chịu trước tác thẳng lối ngay hàng để có các trang bài mà Phan Nhiên Hạo trông chờ? Nền văn nghệ, văn hóa miền Nam 1954-1975 với đặc thù của mình đã sinh ra được một số kỳ nhân. Xã hội Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua, chưa ở đâu có được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn… như vậy. Những "thiên thần" đó đều có... "ma quỷ" trong mình. Cái dở tệ ở thơ Trung niên thi sĩ có nguồn gốc ma quỷ này chăng?
Đi Vào Cõi Thơ, có thể xem đấy là tập phê bình (nửa bình luận nửa nhận định) văn chương đặc trưng phong cách Bùi Giáng. Không khó đọc như nhiều trang văn xuôi khác của ông. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris, 1998, tái bản (từ bản in lần đầu 1969, nhà Ca Dao, Sài Gòn, 1969); hai cuốn, mỗi cuốn trên dưới 160 trang, khổ thường, trình bày sang, trong sáng. Nhìn chung các bài đều ngắn, 2-3 trang, nhiều bài chỉ 5-6 câu, nửa trang. (Gọi là trang cho chuẩn, chứ các trang của hai cuốn sách này chứa rất ít chữ). Ở cuốn Hai (mang tên Thi Ca Tư Tưởng – Sổ Đoạn Trường) kích cỡ các bài khá đều; cuốn Một thì thất thường: có những bài chỉ 3-4 câu (về Dylan Thomas, Walt Whitman); vài bài thật dài: về Huy Cận (21 trang), Hoài Khanh (13 trang), Quang Dũng (8 trang), Tuệ Sỹ (8 trang). Nếu Anton Tchekhov là phê bình gia, chắc ông sẽ không cần phải mơ đến "những bài gọn bằng một bàn tay" nữa. Chúng có trong Đi Vào Cõi Thơ rồi!
Bùi Giáng đã phê, bình, bàn, luận, điểm… về nhiều nhà thơ, nhà tư tưởng cổ kim Đông-Tây. Ở cuốn Hai, vài chủ điểm chung chung cũng được đáo qua (dịch, thi ca, triết lý, Thượng đế). Chừng 90 tác giả khá tiêu biểu được chọn làm tên bài, và hầu như tên bài cũng chỉ là tên tác giả cần bàn tới. Những tác giả được viết thành bài nhiều nhất là Hồ Dzếnh (7 lần), Nguyễn Du (6), Xuân Diệu (3), Huy Cận (3), Đinh Hùng (3), Phạm Hầu (2), Hoài Thanh (2), Đỗ Long Vân (2), Hoài Khanh (2), Mai Vân Thu (2), Khổng Tử (2), Shakespreare (2), Martin Heidegger (2)... Một lần tác giả tự bình mình, trong bài Bùi Giáng (trang 98, cuốn Một).
Nhà An Tiêm đã có một thao tác thừa mà rất nhà nghề, khiến tập sách và tác giả thêm điểm: Lưu ý độc giả rằng tác giả, vì các hoàn cảnh éo le, không thể viết tiếp các tập 3, 4, v.v... như dự định "để cốt tránh sự ngộ nhận, bởi vì còn nhiều nhà thơ tài ba mà Bùi Giáng chưa kịp viết đến." Khỏi cần thanh minh. Mọi cách thức phê bình đều có chỗ mạnh nơi yếu. Bản thân lối phê bình theo thị hiếu cá nhân đã bất cập về tuyển chọn. Chả thế Hoàng Trung Thông từng viết về Hoài Thanh: "Đừng trách anh tại sao chỉ nói nhiều về người này mà ít nói về người kia." Cũng như các tác phẩm hay dở dở hay khác của Bùi Giáng, tập sách này nếu biên tập chỉn chu, chắc phải bỏ đến cả tá bài.
Phương cách luận thơ của Bùi Giáng cũng theo lối bình giải văn học, điểm xuyết tác giả và tác phẩm, với nội dung và hình thức độc nhất vô nhị. Và, vẫn như Hoài Thanh – Hoài Chân làm Thi Nhân Việt Nam, cách tuyển chọn, bình giải ở đây không qui luật, hoàn toàn "phê bình cảm thụ hồn nhiên theo thị hiếu cá nhân". Phong cách của Hoài Thanh sang cả, nhẹ nhõm mà tinh vi ngầm, luận lí ẩn. Còn với Bùi Giáng "nhiều khi đọc lên thật bàng hoàng. Với nhận xét tinh tế, độc sáng về một khía cạnh nào đó của một tác giả thơ nào đó." (Tạp chí Thời Văn, Sài Gòn; trang bìa cuối cuốn Hai). Tôi còn nhớ, khi đọc lần đầu, các bài như những đoản kiếm khi đâm thẳng lúc lao xiên vào nỗi ham biết về thơ, vào cái tò mò về Bùi Giáng của tôi. Trong bài Hoài Thanh (trang 70, cuốn Hai), Bùi Giáng đã viết về người thày cũ của mình, rằng phong cách phê bình Hoài Thanh tạo ra "không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau". Xin được nói leo: Bùi Giáng là một; nhưng, người sau nên và có thể đi theo Hoài Thanh được, và người sau không nên mà cũng không thể đi theo Bùi Giáng được. Nếu như thiên tài – cả cái hay lẫn cái dở - là không lặp lại, thì ở đây đúng với họ Bùi!
Bài đầu tiên của cuốn Một, về Tuệ Sỹ, là một áng phê bình không thể nào quên. Làm ta hiểu đúng và hiểu hay về một thiền sư-nhà thơ mà theo tôi có thơ hay nhất trong giới tu hành thời nay (tức tính cả Phạm Thiên Thư.) Các bài hay khác: Hoài Thanh, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Huy Cận...
Bài Vui Nhất Và Buồn Nhất (trang 110, cuốn Hai) là tản văn ngắn, dung dị, châm đến một cốt tủy của thơ, ít người viết ra nổi: làm sao nói được nỗi vui nhất bằng thơ! Xứng đáng đứng vào văn tuyển cho học sinh.
Bài Đỗ Long Vân (trang 66, cuốn Một) chỉ có ngần này câu chữ – "Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... mang tâm hồn thi sĩ giấu mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi" – mà sao lênh láng, mà sao ngậm ngùi. Ở sự đúng và sự thơ. Bài Đỗ Long Vân khác (trang 87, cuốn Hai), cũng đắc lắm!
Bùi Giáng tài đúc những câu bảng hiệu cho nhiều tác giả: "Nguồn thơ Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam." (trang 38, cuốn Hai); "Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh." (trang 70, cuốn Hai); "Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương." (trang 98, cuốn Hai)
Hiếm ai ngờ rằng, người thơ được thành bài nhiều lần nhất lại là Hồ Dzếnh: 7 lần! (Nguyễn Du chính thức 6 lần, nhưng thơ và con người của "cha nàng Kiều" thì đi tới đi lui trong hai cuốn sách.) Tôi hơi khó hiểu vì sự giống và khác giữa hai nhà thơ này. Có thể giải thích thế nào? Giống: cùng là thần lục bát; cùng tâm trạng tha hương, cô đơn; Khác: từ thơ tới đời, người thì thậm lập dị kẻ lại quá giản dị. Đọc 7 bài bình, tôi thấy chúng dù không lệch cũng chẳng trúng; thú vị thôi, không thần phục. Tôi cũng mê thích thi sĩ Minh Hương này lắm, coi ông như một trong các đại tướng của “thi chủng” lục bát Việt Nam, nhưng cái mê thích của tôi khác với Bùi quân nhiều quá. Chắc tôi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh rồi! Sẽ phải đọc lại mãi các bài Giang Tây, Phút Linh Cầu từng khiến người bình thơ có một không hai đó "bải hoải chân tay".
Và cũng chính từ hai bàn tay ấy có biết bao lời bình rất... chán:
- Sáo tai, nhàm mắt: "Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả" (trang 64, cuốn Một);
- Đại ngôn, tếu táo: "Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. (...) Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi (...) Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn" (trang 30, cuốn Hai); "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia (bài Rằm Tháng Giêng – ĐQ) của Hồ Dzếnh" (trang 36, cuốn Hai);
- Không thuyết phục: "Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà Huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm" (trang 124, cuốn Một).
Họ Bùi đã bình điểm không ít các nhà thơ chưa, đang thành danh, nhưng tôi thấy hiếm có bài nào thành đạt. Không phải vì tên tuổi các vị đó không rạng rỡ, mà chính là ở chất lượng bài viết. Chúng làm dở một tác phẩm quí hiếm như Đi Vào Cõi Thơ! Dễ cảm giác ông có các bài ấy vì thù tạc, hoặc vì ẩu! Có những bài tệ tới độ không phải bình thơ mà là tán! Như các bài Mai Vân Thu, Phạm Quang Bình...
Võ Phiến cũng nhận xét, "Nói về một thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông "đi vào cõi thơ" của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không!"; và đã tinh tường nhìn ra vài bất cập ở cách bình luận trong hai cuốn sách, khi tác giả động đến các thi sĩ đương thời, các bạn thơ: "Khi khác, Đi Vào Cõi Thơ (1969) của các thi sĩ cùng thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp một thi sĩ nọ – đồng hương với ông – ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? (…) Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như thế xảy ra đều đều". Hai tác giả được Võ Phiến nhắc đến mà Bùi Giáng "chạy làng" là: Tạ Ký (trang 109, cuốn Một) và Đặng Tấn Tới (trang 168, cuốn Hai).
Tôi không thể tự trả lời là Bùi Giáng có sách của những người đó hay không. Cũng không cho việc cả Bùi Giáng lẫn Võ Phiến không chọn được bài thơ nào thì tập thơ đó phải dở. (Chúng ta đang nói về phương pháp bình chọn theo "gu"!) Nhưng nếu Võ Phiến có lý thì, xin thưa rằng bảo "tinh quái" là ông nói yêu đấy. Hay vì ông trọng tuổi nên dư lượng thứ! Kẻ viết bài này thua ông 2-3 thế hệ nên cũng ráng bảo Bùi quân là "quái" mà không “tinh” (tường) trong vụ này. Còn đám trẻ hơn, thế hệ "gọi con mèo là con mèo", sẽ la lên: "Cụ Bùi xạo quá trời, tụi bây nè!" Nếu như Bùi quân có sách trong tay nhưng không khoái trích dẫn thì quả đấy là một giọng... trí trá (xin lỗi, tôi sẽ tìm từ khác nhẹ hơn!) Ai cũng biết trong nghề phê bình, tội trí trá được xem là tệ nhất! Nhưng mà thôi, tha lỗi cho tôi chót nặng lời. Là Bùi "Siêu quậy" của làng văn nghệ Việt, lời nhận định của ông cũng quầy quậy, "cũng đi rồi đến". Hậu sinh chúng ta nên đọc ông với một tâm thế riêng trong tương quan của mình với ông.
Còn điểm này, vui vui… Điều chính của bài Quang Dũng (trang 88, cuốn Một) là bình bài thơ Kẻ Ở để chứng minh nhận định (cũng nên coi như một ''đại ngôn" của tác giả): "Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi". Đoạn bình Kẻ Ở và toàn bài Quang Dũng có thể xem là thành công. Nó chỉ "thất bại" ở chỗ, tác giả lời bình cũng bị số phận như đa số dư luận yêu thơ khác: biết bao nhiêu năm đã bé cái nhầm về tác giả bài thơ quen thuộc ấy. Thưa, Quang Dũng "người Sơn Tây" không phải là tác giả của nó đâu ạ! Từ những năm 1989-1992, báo chí trong và ngoài nước, đã "trả cát bụi về cho cát bụi": bài thơ Kẻ Ở - trước từng được coi là của Quang Dũng - chính là bài Dặm Về (hay Mai Chị Về) của Nguyễn Đình Tiên. Các nghi án văn học đều kèm theo tai nạn. Trời giáng ai nấy chịu. "Người trời" như Bùi Giáng cũng khỏi thoát! An Tiêm tái bản cuốn Đi Vào Cõi Thơ sau gần 10 năm khi tác giả và văn bản của bài Dặm Về (Kẻ Ở) được tái xác định. Còn ấn bản điện tử của Đi Vào Cõi Thơ trên talawas.org 11-5-2006 làm theo sách nói trên lại cũng không có chú thích về bài Quang Dũng. Giá như An Tiêm và talawas.org có một phụ chú nho nhỏ thì thật quí cho các tác giả Quang Dũng, Nguyễn Đình Tiên, cho bạn đọc, và cho cả bình giảng gia quái kiệt họ Bùi tên Giáng!
Chưa được đọc ấn bản lần đầu của cuốn hợp tuyển Bùi Giáng Trong Cõi Người Ta (Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây & NXB Lao Động, Hà Nội, 2008), mà chỉ qua các bài giới thiệu, tôi được biết có 18 bài luận tiêu biểu từ hai tập Đi Vào Cõi Thơ đã được tuyển chọn vào cuốn sách ấy – một công trình biên soạn được coi là đầu tiên, phong phú nhất và bài bản nhất về Bùi Giáng.
Nếu Bùi Giáng (chỉ) là thơ, thì thơ Bùi Giáng (chỉ) là lục bát.
Tôi sắp ví các danh tướng nhà Thục thời Tam Quốc với các thi sĩ lục bát tài danh Việt Nam. Một cách tương đối: Về ngôi thứ uy quyền, nếu coi Lưu Bị là Nguyễn Du, thì tiếp theo: ai là ai? Quan Vũ, ấy là Nguyễn Bính; Trương Phi là Bùi Giáng. Vậy là xong nhà Lưu-Quan-Trương. Tiếp: Triệu Tử Long: Hồ Dzếnh. Rồi những Hoàng Trung, Ngụy Diên, v.v... là những Bàng Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Duy, Luân Hoán, Đồng Đức Bốn, v.v... Còn hạng xoàng xoàng Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung... không kể xiết. "Lục bát là nơi thử thách bút lực của các thi sĩ" (Trần Đăng Khoa). Tôi đoán chắc không sai: ai đã làm thơ tiếng Việt thế nào cũng kinh qua một tá bài lục bát. Với rất nhiều người thơ, lục bát là mối tình đầu.
Bùi Giáng quí cưng Hồ Dzếnh lắm, quí hơn Nguyễn Bính bội phần. Trong hai cuốn Đi Vào Cõi Thơ, Dzếnh được bình những 7 lần (lại còn được yêu đến mức cải tên thành Hồ Xuân Dzếnh: Hết sảy!), Bính được nhõn có 1 lần! Bất chấp, trong khi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh, tôi vẫn coi Nguyễn Bính và Bùi Giáng là hai vị tả hữu quanh ông vua lục bát Việt – Nguyễn Du, mà Hồ Dzếnh ở sau, cách xa hai vị này. Và còn khoảng cách rất xa nữa mới tới các vị sau đó.
Nhiều, rất nhiều câu thần ở hai ông-thần-lục-bát này. Thần thơ Nguyễn Bính là thần dân, thần đất. Ngẩn ngơ và ngẫm một hồi, không lâu. Ta hiểu, cảm được. Phần nào.
"Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
(Hành Phương Nam)
Hay chính câu Bùi Giáng chọn khi bình Nguyễn Bính ở Đi Vào Cõi Thơ:
"Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi".
(Thư Gửi Thầy Mẹ)
Đọc Bùi Giáng ta gặp Nguyễn Du đều đều, ở những câu trang trọng, phức tạp:
"Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh".
(Áo Xanh)
Và cũng gặp Nguyễn Bính thường xuyên, ở những câu chân chất như lời lách ra từ tim. Như thế này:
"Hôm nay mưa gió đầy trời
Về sau sẽ có vài người quên nhau".
(Mê Cung)
(Chú ý 1: “Quên nhau”; chứ nếu là “yêu nhau” thì hết còn thơ Bùi Giáng; mà thành thơ... Đỗ Quyên, chẳng hạn!!! Chú ý 2: Dù không là từ khóa về nội dung, số từ “vài“ tưởng chỉ là phụ từ tầm thường, nhưng đó chính là dấu triện của nghệ thuật Bùi Giáng đóng lên hai câu lục bát. Nguyễn Bính có thể hạ được chữ “vài“ này, nhưng – nói nghiêm chỉnh – đến như Nguyễn Du cũng chửa chắc?)
Hoặc như thế này này, khi nhà thơ tự tả mình trong cái nhìn của cô hàng xóm:
"Vừa điên dại vừa thê lương
Vừa vui trời đất vừa buồn nắng mưa".
(Lẩm Cẩm)
Lục bát Bùi Giáng là thơ trời rơi xuống, lục bát Nguyễn Bính từ đất mọc lên. Tư tưởng là nền cho thơ Bùi Giáng. (Cho nên, ở trên đã nói dòng thơ này có thể đạt đỉnh thế giới.) Ở Nguyễn Bình gốc là tương tư. Có thể vì học vấn của họ Bùi thâm hậu, còn ở họ Nguyễn chân quê! Nhiều câu chữ xuất thần của Nguyễn Bính, đọc xong bạn có thể vỗ đùi: "Giá Bính không viết, ắt tớ hay tay X. sẽ viết!" Cái thần Bùi Giáng là thần trời. "Ông trời xanh ắt cũng phải bối rối lắc đầu…" huống hồ. Bạn chỉ có thể vò đầu:
"Quét xong sân lá chợt buồn
Bỗng dưng chợt thấy nghìn muôn lỗi lầm".
(Ca Dao)
Thần! Thần đến thế là cùng! Hoan hô “anh” Bùi Giáng!
Hỏi giới phê bình hay các fan Bùi Giáng: bài thơ nào, 2-3 bài thơ nào là hay nhất? Chắc sẽ tắc tị! Bù lại họ sẽ đọc vanh vách một vài câu, thậm chí cả chục câu thần thi. Không! Bùi Giáng không phải chỉ là thi-sĩ-của-những-câu-thơ-bạc-cắc. Trong tập Đi Vào Cõi Thơ, khi tự bình thơ mình, ông chọn 2 bài đượm chất chuồn chấu nhất, tức Bùi Giáng nhất: Giữa Phố và Bóng Dương Buồn Ngủ. Đã nhâm nhi đến cả tá lần 2 bài này, tôi khó có ý khác với tác giả. Song, nếu là người tuyển, tôi sẽ chọn 2-3 bài khác, của riêng mình. Với những độc giả đã chịu rồi, thơ Bùi Giáng tỏ ra rất hào phóng, "dân chủ". Không như với đại đa số nhà thơ tên tuổi khác, các bài hay của họ dễ thành của chung trong lòng người yêu thơ. Ai cũng có thể có một Bùi Giáng, một thơ Bùi Giáng của riêng mình. Trong khi chúng ta thường có chung một Nguyễn Du, một Nguyễn Bính, một Xuân Diệu, một Hàn Mặc Tử, một Thanh Tâm Tuyền, một Hoàng Cầm, một Tô Thùy Yên... Và ngay cả một Đinh Hùng, một Trần Dần...
Thơ Bùi Giáng có trong sách giáo khoa cho học sinh chưa? Tôi cũng không biết!? Nếu chưa thì nên có. Khó chọn (vài) bài thơ hay nhất của Bùi Giáng vào hợp tuyển văn học, nhưng không khó lắm khi đưa thơ của ông vào văn tuyển giáo khoa. Không xa tay tôi là tập Mưa Nguồn (NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1993). Thi phẩm đầu tay của ông. "Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng" (Đặng Tiến). Tôi giở không chủ ý, nơi trang 108, được bài Xuân Bình Dương. (Mời xem dưới đây, phần Phụ lục). Có thể làm bài học thuộc lòng ở các trường trung học thời “hậu hiện đại”. Thưa các thày các cô, cho phép tôi “cầm đèn chạy trước ô tô” khi lưu ý các em học sinh với những câu sau: “Xin lời mở rộng con mương” (Chữ “lời” cực đắt!); “Những bàn tay những mùa thu trong mình” (Ẩn dụ, hình tượng kỳ khôi đến thế thì thôi!); “Ngàn năm thôn nữ lên bờ ướt chân” (Đã thần diệu lại còn điệu đà!); “Nhắm hai mắt mở muôn phần hai con” (Hiện sinh? “Hai con” gì? Hai con… người?); “Bàn chân đen ngón không dài/ Bàn tay đen ngón nắm hoài không nguôi” (Cái gì đây: Hiện thực và lãng mạn? Siêu thực và huyền ảo? Thơ hay là họa/nhạc?)
Tại sao thơ Bùi Giáng lại hay dở dở hay? Đây không chỉ là câu hỏi quan trọng cho giới phê bình-nghiên cứu văn học, mà còn cho các nhà Bùi Giáng học. Vấn đề biên tập dự phần ra sao? Tôi muốn hỏi to một câu: Những khi thể trạng ông không điên-tỉnh, là người bình thường liệu Bùi Giáng có tham gia chịu trách nhiệm trong việc in ấn, phổ biến tác phẩm của mình không? Thực ra, các bản thảo "nguyên con" của một tác giả chỉ có giá trị nhất định với những ai làm công tác khảo cứu văn bản. Tác giả nào đó chỉ được đánh giá một cách công chính qua những tác phẩm ra mắt độc giả trong sự kiểm soát dù ít dù nhiều của anh ta về sự công bố. Với các tác giả quá cố, việc in bản thảo, nhất là di cảo, luôn là bài toán nhiều nghiệm, thậm chí vô nghiệm!
Ngợp và ngạt giữa cái phi phàm lại thú vị, cái khó hiểu đến kinh dị mà dễ thương, cái lộn xộn mà vẫn đâu ra đấy trong trước tác của Bùi Giáng, công tác biên tập sách, bài vở của ông ở miền Nam trước 1975, ở Việt Nam và hải ngoại sau đó, dường như đã không qua những cách thức bình thường. Con người ta vốn sợ bỏ rơm rác ra khỏi một kho vàng. Cứ như là, khi buộc phải ra đi, rác rơm mang theo hơi vàng vậy! Là người không có đời sống tinh thần và vật chất ổn định, là người viết tự do tuyệt đối 101% (về phong cách, nhu cầu in ấn, tính chuyên nghiệp), tác phẩm của Bùi Giáng dựa trên ý thức của một người phi học, vô nghề. Cho dù, theo Trần Hữu Thục, đúng là Bùi Giáng "không che dấu cái dở của mình. (...) Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện", nhưng những người biên tập đã làm gì cho tròn trách nhiệm? Chính các điều dang dở và các điều dở trong bản thảo đã góp phần tạo phong cách hay dở dở hay ở văn chương Bùi Giáng. Và thách đố cho những ai bạo gan biên tập sách, bài vở của ông là ở đấy. In sách thì phải ra sách. Ô cửa này của văn minh nhân loại thiên tài nào cũng phải qua, nếu đã vào vòng định giá. Nhất là ở thời nay, văn hóa truyền thông đã coi truyền khẩu, giai thoại và các thứ phẩm của nó như những cái gì thuộc về... viện bảo tàng!
Cuối cùng, tôi đồng tình cùng ý với Phạm Thị Hoài: "Không sửa sang cho ông, như thường miệt mài gọt rũa hay tưởng đang gọt rũa mình công phu lắm, với cái cớ rằng chữ nghĩa của ông từ ngàn khơi đổ về, ch¬ẳng ai biên tập một đại dương. Không thẩm định, không đòi hỏi, không đặt niềm tin, không thất vọng, ta nhẹ ban cho ông hai chữ "thiên tài".”
Dành cho Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây trong cuốn sách tuyển lần này, bài viết đã được tu chỉnh, rút gọn khá nhiều từ bài đầu tiên mang tên Bùi Giáng Và Những Đứa Trẻ Mồ Côi (talawas.org 21-10-2003), và từ các bản rút gọn khác (như Tạp chí Sông Hương số 243; 5-2009). Trải qua nhiều nâng lên hạ xuống, cứ như với một sáng tác thực sự! Mà tôi không dám coi rằng, những lúc ấy và lúc này mình đang làm thơ, phiêu bồng giống thần tượng của mình.
Thì đây, trong bài Bài Thơ Ấy, Trung niên thi sĩ đã
"Viết vào tờ giấy mong manh
Bao nhiêu tình tự long lanh không lời".
Canada, 9-2003 – 9-2011
--------- CHÚ THÍCH:
*) Đã in trong sách BÙI GIÁNG TRONG CÕI NGƯỜI TA; Chủ biên ĐOÀN TỬ HUYẾN Nxb Lao Động 2012.
1) CÁC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN KHÁC:
- Bùi Giáng: “Đêm Ngắm Trăng”, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh 1997
- Phạm Thị Hoài: Một giải thưởng văn chương mang tên Bùi Giáng; talawas.org 10-10-2003
- Trần Hữu Thục: Bùi Giáng giữa chúng ta; sách “Viết Và Đọc”, Văn Học, California 1999; talawas.org 9-10-2003¬¬
- Nguyễn Hưng Quốc: Cuộc hòa giải vô tận: Trường hợp Bùi Giáng; sách “Thơ, v.v... và v.v...”, Văn Nghệ, California 1996
- Phan Nhiên Hạo: Bùi Giáng như tôi thấy; litviet.com 31-5-2009¬
- Nguyễn Hữu Hồng Minh: Bùi Giáng - Người thơ cuối cùng của thế kỷ 20; vnexpress.net 7-10-2003
- Võ Phiến: Bùi Giáng, Văn học miền Nam - Thơ, Văn Nghệ, California 1999
- Thanh Tâm Tuyền: Bùi Giáng - hồn thơ bị vây khốn; Văn, Sài Gòn 1973; (¬Tạp chí Thơ, California số 1-1994)
- Vân Long: Bùi Giáng trong cõi người ta và soạn giả Đoàn Tử Huyến; Sức khỏe và Đời sống, 11-2008;
2) PHỤ LỤC:
Bài Xuân Bình Dương của Bùi Giáng:
"Xin lời mở rộng con mương
Xin chiều bến đỗ Bình Dương bây giờ
Những bàn chân bước hoang sơ
Những bàn tay những mùa thu trong mình
Xin lời nói hãy nín thinh
Xin hàng phượng đỏ bên đình ngơ cho
Bến sông ghe đỗ bây giờ
Ngàn năm thôn nữ lên bờ ướt chân
Xin người em hãy lại gần
Nhắm hai mắt mở muôn phần hai con
Ngó sương mây lục trời tròn
Ngó sương muối nhuộm tóc còn xanh vai
Bàn chân đen ngón không dài
Bàn tay đen ngón nắm hoài không nguôi
Bây giờ xin hãy nhìn tôi
Người em ấy nhận ra người anh chưa".
- Viết vào Bùi Giáng mong manh... Đỗ Quyên Nhận định
- Bài, tin về buổi ra mắt sách Trung-Việt Việt-Trung 16/7/2016 -Toronto, Canada Đỗ Quyên Giới thiệu
• Bùi Giáng - Thi ca và Tư tưởng (Tuệ Sỹ)
• Vài Liên Tưởng Phân Tâm Học Qua Thơ Bùi Giáng (Hoàng Dung)
• Viết về Thi nhân Bùi Giáng (Vũ Ký)
• Bùi Giáng Qua Cái Nhìn Của Nguyễn Huệ Nhật (Nguyễn Huệ Nhật)
• Những buổi chiều nghệ thuật (Viên Linh)
• Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng (Mai Thảo)
• Viết vào Bùi Giáng mong manh... (Đỗ Quyên)
• Bùi Giáng, Càng điên, càng tỉnh; càng già, càng lãng mạn (Nguyễn Hưng Quốc)
• Bùi Giáng và nỗi lòng Tô Vũ (Phạm Xuân Đài)
• Bùi Giáng: Trung Niên Thi Sĩ (T. V. Phê)
• Những Giai Thoại Về Bùi Tiên Sinh (T. V. Phê)
Talawas (từ 1 - 16) (Nhiều tác giả)
• Đi vào cõi thơ Tuệ Sỹ (Bùi Giáng)
• Thân Phận Của Hồ Xuân Hương (Bùi Giáng)
• Đi Vào Cõi Thơ Hoài Khanh (Bùi Giáng)
• Phụng Hiến (Hồng Vân ngâm) (Bùi Giáng)
- Thi Ca Tư tưởng (Đi Vào Cõi Thơ II)
Thơ Bùi Giáng trên mạng:
• Tâm Thức Phật Việt: Sức Mạnh Từ Tam Tạng Thánh Điển Đến Lịch Sử Dân Tộc (Nguyên Siêu)
• Ôn ra đi để lại nụ cười (Trần Trung Đạo)
• Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh (Viên Linh)
• Đi vào cõi thơ Tuệ Sỹ (Bùi Giáng)
• Bùi Giáng - Thi ca và Tư tưởng (Tuệ Sỹ)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |