|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Trong kho tàng Văn Chương Bình Dân, nói khác đi là Văn Chương Truyền Khẩu gồm nhiều thể loại, song thông thường, dễ nhớ và thường nghe nhắc nhở nhiều, đó chính là Tục Ngữ và Ca Dao.
Trên bình diện Văn Học và đời sống, Tục ngữ có địa bàn rộng rãi hơn, mang tính phổ cập và được coi như là “Túi khôn của nhân loại”, ví dụ ta nói:
Cha nào con nấy
Người Anh, người Mỹ nói:
Like father like son
Và người Pháp nói:
Tel père tel fils
hoặc:
Xa mặt cách lòng
Người Anh/Mỹ nói:
Out of sight, out of mind
và người Pháp nói:
Loin des yeux loin du Coeur v.v.
Trong khi Ca Dao mang tính địa phương hơn, tùy thuộc vào văn hóa và môi trường, hoàn cảnh sống của mỗi dân tộc v.v.
Ca Dao có đặc tính chung là bao trùm mọi sinh hoạt gia đình, xã hội, và nếp sống tinh thần cũng như tình cảm con người trong một xã hội.
Nói đến sinh hoạt gia đình và xã hội là nói đến sự bao gồm cả lễ nghi tôn giáo, hội hè đình đám v.v.
Tóm lại là Ca Dao phản ảnh mọi tình tự trong: Quan – Hôn – Tang – Tế và ở một khía cạnh nào đó còn được coi là “Lịch sử ngầm”, ví như những câu nói về Huyền Trân công chúa:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
để cho chú mán chú mường nó leo!
Nhân dịp Xuân về, người người dù ở trên quê hương hay đang thả bước lưu vong nơi hải ngoại đều nô nức sắm sửa đón Xuân, mừng Tết Nguyên Đán vì đó là truyền thống, là văn hóa dân tộc nên không tránh khỏi những giây phút bồi hồi trong tâm hồn vào những chiều cuối năm:
Mỗi khi nghe nói đến xuân
bỗng dưng lòng thấy bâng khuâng ít nhiều
Để nhớ lại những mùa Xuân qua trên quê hương của một thời nước non thanh bình, từ phố phường, thành thị đến đồng quê thôn trang, mọi người tưng bừng mừng Tết, đón xuân, nhà nhà đều vui với: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” thiết tưởng không gì hơn là cùng nhau ôn lại những áng Ca Dao để gợi lại trong ta những khúc tình quê ngọt ngào, nhiều vương vấn và cũng là để có dịp hun đúc tinh thần trong sứ mệnh duy trì và phát huy văn hóa cổ truyền.
Mỗi năm mới có một lần, những ngày cuối đông cũng là những ngày cuối năm. Năm hết Tết đến, nhà nhà lo lắng đủ điều, nào là công nợ, việc làm dở dang, nào là lo sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ Tết v.v.
Quanh năm cuộc sống tất bật, Tết đến mừng vui song không tránh được những âu lo về tài chánh, về vật chất nên Ca Dao có câu:
Tết đến sau lưng
trẻ con thì mừng
người lớn thì lo.
Chính vì phải mua sắm đủ điều cho mấy ngày Tết nên chật vật, thiếu hụt, do đó người đời có câu:
Đi cày ba vụ không đủ ăn ba ngày Tết!
Trong tâm tư người dân Việt luôn canh cánh những ưu tư, đã vậy lại còn bị những gánh tuồng, gánh hát kéo đến làm rộn những âu lo:
Bây giờ tư tết đến nơi
tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
nghĩ mình vất vả long đong
xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
về nhà công nợ nó đòi
trong lòng bối rối đứng ngồi không yên.
Trong một xã hội luôn có kẻ nghèo người giầu song những ngày thường trong năm ít ai để ý, đến cuối năm nhìn vào việc mua sắm mới hay nhà ai khấm khá, nhà ai túng quẫn. Cảnh huống ấy cũng từng được ghi nhận qua mấy câu:
Có/không mùa Đông mới biết
Giầu/nghèo ba mươi Tết mới hay.
Từ ngày xưa, những ngày sống trên đất tổ, Tết là dịp quan trọng, những ai vì hoàn cảnh phải xa nhà, rời bản quán cũng cố gắng thu xếp để gồng gánh, dìu dắt nhau về đón Tết, mừng tuổi ông bà, cha mẹ, họ hàng. Theo tục lệ này hầu như mọi người đều thuộc lòng những câu ca và cứ theo như thế mà làm:
Mồng Một tết cha
mồng Ba tết thầy.
hoặc nói khác đi cho đầy đủ, trọn tình trọn nghĩa hơn, nếu như đã có gia đình riêng thì không thể quên lãng bổn phận:
Mồng Một thì ở nhà cha
mồng Hai nhà vợ, mồng Ba nhà thầy.
Sở dĩ có lệ tết thầy vì người Việt ta luôn có tinh thần “Tôn sư trọng đạo” và đã được giáo huấn từ thuở ban sơ:
Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa
bởi:
Không thầy đố mày làm nên
Trong nền tảng giáo dục ấy, cái ĐỨC rất quan trọng. Vào hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20, ở Thăng Long Thành xuất hiện hai nhân vật nổi tiếng về trào phúng, hay trêu chọc thiên hạ, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Từ đó như để nhắc nhở, răn đe những kẻ hay ăn gian, nói dối, người ta có câu:
Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng Một Tết Ba Giai đến nhà.
Trong tập trường thi Kim Vân Kiều của thi hào Nguyễn Du cũng đã không bỏ qua tục lệ Tảo Mộ vào mùa Xuân, những ngày tháng đầu năm:
Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Người dân vẫn có lệ Chạp Mả, dọn dẹp cỏ rác cho các ngôi mộ vào tháng Chạp để mời gia tiên về ăn Tết. Lệ này cũng rất quan trọng đối với lòng hiếu của con cháu nên người đời thường nhắc nhớ nhau qua những câu:
Đi đâu thì mặc đi đâu
đến ngày giỗ chạp phải mau mà về
Ảnh hưởng của tục lệ này cũng rất sâu sắc, trong đó có Lễ Bàn Thờ Gia Tiên. Lơ là hay quên lãng là điều bất hiếu vì thế nên có người con gái đã trách vị hôn phu của nàng:
Chiều Ba Mươi anh không đi Tết
rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ
hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công!
Thế rồi người con trai thấy mình có lỗi bèn kiếm cớ biện bạch chạy tội bằng cách nói bận việc làng:
Hôm Ba Mươi anh mắc lo việc họ
Sáng Mồng Một anh bận việc làng
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi.
Nếp sống của người dân không chỉ gắn bó với đồng ruộng mà còn phần nào theo đuổi thương nghiệp. Trong lãnh vực này, nhất là vào dịp Tết, nếu không nhắc đến chợ phiên quả là điều thiếu sót. Chợ Tết là chợ cuối năm bày bán những món hàng từ hoa trái, trang phục đến đồ chơi, đồ thờ, đồ dùng cho mấy ngày Tết; cũng có thể còn là phiên chợ đầu năm, họp để lấy hên, lấy ngày. Vào thời điểm này, không chỉ là ở khu chợ mà có thể còn là tại một khoảng đất trống nào đó, người ta tổ chức những trò chơi như: đánh đu, đô vật, bịt mắt đập niêu, ném vòng v.v.
Chợ phiên có những nơi một năm chỉ họp một lần vào ngày nào đó cuối năm, ví như ta vẫn từng nghe:
Bỏ con bỏ cháu
Không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên
Bỏ tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng mồng tám.
Chợ Yên và chợ Viềng là tên hai chợ ở Nam Định ngày trước, đó là những phiên chợ sầm uất quy tụ rất đông, nam phụ lão ấu, kể cả những vùng lân cận cũng kéo đến mua sắm.
Tại cố đô Huế, dân đất thần kinh có chợ phiên Gia Lạc gần thôn Vỹ Dạ, hàng năm chỉ nhóm họp trong mấy ngày Tết, thường thì từ 29 tháng Chạp đến mồng ba Tết. Theo truyền thuyết thi do vị hoàng tử thứ tư của vua Gia Long cho họp vào ba ngày đầu năm trên một khoảng trống gần phủ đường, lúc đầu có ý để người trong hoàng tộc tiện tới mua sắm, sau dân làng chung quanh cũng được tham dự nên có câu:
Gia Lạc chỉ mở ngày xuân
Quanh năm suốt tháng khó lần tìm ra.
Tỉnh Vĩnh Yên có chợ Dưng, Dưng là tên của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường. Hàng năm nơi đây mở hội Xuân vào mồng sáu tháng Giêng. Trong phiên chợ cũng nhiều trò chơi, đặc biệt có trò chơi “nam nữ bắt chạch trong chum”. Do đó người dân cũng có câu:
Bỏ con bỏ cháu
Không ai bỏ mồng sáu chợ Dưng.
Rồi nữa, huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa có chợ phiên Cầu Quan, dân ở đây còn gọi là chợ Thượng, họp ngay bên bờ con sông đào. Người ta đi chợ còn được thú vui xem đua thuyền rồng thật vui mắt:
Cầu Quan vui lắm ai ơi
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng.
Vùng Quan Họ Bắc Ninh cũng khá nhiều chợ phiên nổi tiếng một thời qua những câu hát:
Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hướng Canh
Những tên gọi Xứ Nam, Xứ Bắc, và Xứ Đoài là có ý chỉ các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Tây.
Vùng đất Nam Định người ta cũng được nghe những câu ca nói về những thú vui nơi các phiên chợ trong những ngày đầu xuân:
Mồng Một chơi cửa, chơi nhà
Mồng Hai chơi xóm Mồng Ba chơi đình
Mồng Bốn chơi chợ Qủa Linh
Mồng Năm chợ Trình Mồng Sáu Non Côi
Qua ngày Mồng Bảy nghỉ ngơi
Bước sang Mồng Tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua.
Theo tục lệ ngày Tết Nguyên Đán người ta trồng cây nêu trước nhà có ý để xua đuổi tà ma không cho xâm nhập nên trong dân gian có câu:
Thứ nhất nêu cao
thứ nhì pháo kêu.
Trong tâm thức người Việt cho rằng cây nêu là biểu tượng của sức mạnh, quyền lực xua tan những điều xấu xa, và tràng pháo nổ dòn là niềm vui, hạnh phúc và may mắn. Nhà nào có cây nêu cao là giầu sang, quyền quý:
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Trông mau đến Tết trồng nêu ăn chè
Những lễ nghi trong ngày Tết ngoài việc cúng gia tiên còn lệ cúng trời cúng đất. Vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày Mồng Mười tháng Giêng là ngày vía đất nên có câu nhắc nhớ người dân:
Mồng Chín vía trời
Mồng Mười vía đất
Sáng ngày đầu năm các viên chức trong làng, xã cùng các vị bô lão tụ họp về đình làng để cầu cùng Thành Hoàng và các thần linh phù trợ cho dân làng qua những câu vừa chúc tụng vừa khấn nguyện:
Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiển vinh sang giầu
trước đình lại có rồng chầu
có đôi quy phụng tựa mầu non tiên
giữa đình có đấng bát tiên….
Trong những ngày xuân vô vàn trò chơi; tuy nhiên, mỗi lớp tuổi thường thiên về những môn chơi thích hợp. Trẻ có trò chơi của trẻ, ví như miền Bắc có trò hát “Xúc xắc, xúc xẻ”. Thường vào đêm giao thừa nhóm trẻ chừng mươi, mười lăm em cầm ống bơ đựng vài đồng tiền kẽm, rủ rê nhau đến từng nhà hát mừng gia chủ năm mới gặp nhiều may mắn, mọi sự hạnh thông:
Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
mở cửa cho chúng tôi vào
bước lên giường cao có đôi rồng ấp
bước xuống giường thấp có đôi rồng chầu
bước ra đàng sau có nhà ngói lợp
ngựa ông còn buộc
voi ông còn cầm
ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ
vợ ông sinh đẻ
những con tốt lành
những con như tranh…
một vài nơi khác lại có tục hát ”Sắc Bùa” theo điệu dân ca của từng địa phương. Cũng có nơi kết hợp múa và hát cũng trong điệu dân gian. Đặc biệt là một vài xã miền biển quận Đức Phổ, Quảng Ngãi, Phường Sắc Bùa còn đặt ra những câu hát riêng cho mỗi ngành nghề:
Thánh chúa vạn niên
Thánh chúa vạn niên
Chúng tôi nay dâng cách đội đèn
Thái hòa gặp tiết xuân thiên
Gió đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
để cho trong ấm ngoài êm….
Cũng trong những ngày hội xuân, thanh niên nam nữ tổ chức hát hò, nào là hát dặm, hát đố/đối, hát quan họ, hát trống quân v.v., những điệu hát và lời ca mang tính trữ tình như nhắn nhe, ngỏ ý, trao duyên v.v.
Tới đây viếng cảnh thăm hoa
trước mừng các cố sau là mừng dân
sau nữa xin mừng cả làng tuần
mừng cho nam nữ chơi xuân hội này
một mai đàn có bén giây
ơn dân vạn bội biết ngày nào quên.
Và tình tứ hơn ta nghe:
Mở đầu chàng trai khéo léo ướm hỏi:
Tiện đây Mận mới hỏi Đào
vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Cô gái đáp:
Mận hỏi thì Đào xin thưa
vườn hồng sẵn lối nhưng chưa ai vào
Sự tình đã rõ: vườn hồng để ngỏ đấy song ai thấy có đủ bản lĩnh thì xin mời bởi cuộc đối đáp cũng còn gay go lắm đấy:
Chàng khoe chàng lắm văn chương
Nên đây thiếp mới hỏi rằng:
Dầu gì không ai thắp
bắp gì không ai rang
than gì không ai quạt
bạc gì chẳng ai mua?
Anh cả anh hai đó ơi
Ai bên chàng đáp được thiếp bên này xin theo.
Gặp dịp như mở cờ trong bụng, chàng trai có chút học thức bèn lên tiếng đối đáp:
Dầu thoa không ai thắp
bắp chuối chẳng ai rang
than thân không ai quạt
bạc tình chẳng ai mua
cô cả cô hai đó ơi.
hoặc như khúc hát đố, thử tài tính toán của nhau cũng rất tình tứ trong lời nhắn nhe. Chàng trai lên tiếng trước:
Đôi ta thấy toán thì mê
Em đi đố trước anh về đố sau
thỏ, gà ăn ở cùng nhau
đếm chân ba mươi sáu đếm đầu mười ba
toán đề em giảng cho ra
thì anh kết nghĩa giao hòa cùng em
cô gái cũng nhanh nhẹn đáp lại:
Được rồi em tính anh xem
Anh giờ đứng tuổi còn em trưởng thành
hợp đề em thấy rành rành
thỏ năm gà tám cộng thành mười ba
nghĩa là mười sáu chân gà
hai mươi chân thỏ bài ra đúng rồi
anh còn đố nữa hay thôi
hay là anh tính thề bồi chi đây.
Trong dịp Xuân về, Tết đến, người Việt còn có những thú vui tao nhã, đó là thú chơi câu đối, nói đến câu đối đỏ ta thường nghĩ ngay tới bài thơ “Ông Đồ” của nhà thơ Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào nở
lại thấy ông đồ già
bày mực tầu giấy đỏ
bên phố đông người qua
thế rồi:
nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu
giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu.
Các cụ đồ luôn nghĩ ra những câu đối cho phù hợp với gia cảnh và tình huống của mỗi người, mỗi nhà, và để thêm vào những chuyện vui trong ngày Xuân chỉ xin ghi lại đây một vài giai thoại về câu đối:
Vào ngày Mồng Ba Tết, một ông Bảng ghé thăm người bạn là một ông Tú nghèo, thấy hai con của bạn đang ngồi khóc, mỗi đứa một đầu hè, tưởng là chúng giận nhau chuyện gì. Hỏi ra thì hay là không có tiền đi chơi với bạn và người nhà còn cho biết là các em có học biết làm câu đối, ông Bảng liền nói với hai trẻ nếu đối được câu ông ra sẽ cho tiền đi chơi. Hai trẻ đồng ý và ông Bảng ra câu đối như sau:
Tết với nhất, nhất với tết, một Tết một bết
Cậu lớn còn đang suy nghĩ thì em nhỏ đáp ngay:
Hội cùng hè, hè cùng hội, hai hè hai nhè.
Và một giai thoại nữa nói lên một tình cờ mà tuổi trẻ đã đáp ứng được yêu cầu của người lớn qua vế đối. Chuyện kể ông Nghè Thanh có đứa cháu nội 7 tuổi, sáng 30 đòi tiền mua pháo, bà nội cho tiền mua nhưng tối đến định đem pháo ra đốt lại sợ nên nài nỉ ông nội đốt hộ. Bà nội thấy vậy bật cười…, đốt pháo xong cậu bé đói bụng chạy vô đòi ăn, bà nội mắng “Đồ mua pháo mượn người đốt”, cậu cháu cãi lại “Ông đốt chứ người nào đâu”. Bà Nghè nói muốn ăn thì phải đối được câu này:
Mua pháo mượn ông đốt
Cậu bé nói “Cháu đói quá rồi không đối được - Lấy giò cho cháu ăn”
Bà nội chưa kịp nghĩ ra bèn nói không đối được thì đừng ăn.
Ông Nghè nghe vậy bèn cười nói với bà Nghè “Cháu nó đối rồi đó, Lấy giò cho cháu ăn đối với Mua pháo mượn ông đốt thì chỉnh qúa rồi còn gì. Thế là bà nội đành phải chiều cháu.
Xuân về đón Tết mà có những thú vui như thế thật là hạnh phúc. Tiếc rằng thời ấy đã qua mất rồi. Ngày nay trên quê hương mùa xuân vẫn về, Tết vẫn là Tết song lòng người như không thanh thản, bình an nếu không muốn nói đến những ngậm ngùi, cay đắng, xót xa quầng lên mi mắt và như cũng đồng cảm với những người Việt tha hương trong niềm tiếc nuối những mùa xuân xưa trên miền Nam nước Việt tự do, no ấm, và hạnh phúc nơi nơi./.
- Điển cố tình yêu trong văn học Trường Thy Tiểu luận
- Mùa Xuân Đất Việt Qua Ca Dao Và Tục Ngữ Trường Thy Tiểu luận
- Hồn Dân Tộc Trong Ca Dao Trường Thy Khảo luận
• “Duy Tuệ Thị Nghiệp”: Từ Trí Tuệ Phật Giáo Đến Sự Phát Triển Nền Giáo Dục Nhân Bản (Vạn Đức)
• Mỹ học của hư vỡ: Kintsugi, lấy vàng nối gốm (Nguyên Giác)
• Lịch Sử Đạo Hồi (PHS News)
• Giáo Dục Quốc Gia (1945 - 1975) (Trần Bích San)
• Văn chương đương đại tiếp nhận gì từ văn học miền Nam (Inrasara)
• Năm Dần Nói Chuyện Cọp (Thái Văn Kiểm)
• Mùa Xuân Nói Về Chữ Tết (Nguyễn Thiếu Dũng)
• “Vân Đài Loại Ngữ" Bộ Sách Bách Khoa Toàn Thư Đầu Tiên Của Việt Nam
(Nguyễn Huy Côn)
• Văn Chương Có Biên Giới Không? (Nguyễn Vy Khanh)
• Khoan Dung Và Dị Biệt Văn Hóa (Nguyễn Sỹ Tế)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |