1. Head_

    Dương Quảng Hàm

    (14.7.1898 - 19.12.1946)
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Giá Trị Triết Học Tôn Giáo Trong Truyện Kiều (Thích Thiên Ân) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      27-9-2016 | TIỂU LUẬN

      Giá Trị Triết Học Tôn Giáo Trong Truyện Kiều *

       

        THÍCH THIÊN ÂN

       

        - Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Vạn Hạnh

       

        - Trưởng ban Sử học Đại học Văn khoa Sài Gòn

      Share File.php Share File
          

       

      Nếu "thơ là người” thì qua cuốn Truyện Kiều chúng ta có thể thấy được một Ngưyễn-Du đầy kinh-nghiệm lịch-lãm trên đường đời, một Nguyễn-Du dồi-dào tình-thương và ý-chí, dù gặp phải bao nhiêu trở ngại gian truân.


      Cái hay cái đẹp của Truyện Kiều không những ở chỗ ngôn-từ hoa-lệ, văn-chưcmg thẩm mỹ, ý-tứ thâm-trầm phong-phú, mà còn ở chỗ tác-giả đã mượn cốt người trong truyện để miêu-tả một cách khéo-léo tài tình những thăng trầm vinh nhục cùa cuộc đời, những vui buồn thương ghét của con người và những tan hợp bèo mây của thực-trạng xã-hội. Cao xa hơn nữa, Nguyễn-Du đã dùng truyện Kiều để diễn đạt một quan-niệm triết lý nhân-sinh, một giá-trị triết-học tôn-giáo. Theo ý chúng tôi, điềm đặc sắc cùa truyện Kiều là ở đó, và có lẽ vì thế nên quần-chúng Việt-Nam, nhất là các giới bình-dân đã đón nhận truyện Kiều như một vật thân yêu, nếu không phải là chính của lòng mình, đời mình.


      Cổ-nhân đã nói "Dĩ văn tải đạo" (Lấy văn-chương mà chở đạo-lý). Câu nói ấy rất thích hợp cho truyện Kiềư. Vì thế chúng tôi không đồng-ý với quan-niệm khe-khắt của một số người đã phê bình: Truyện Kiều là một tác-phẩm khêu gợi lòng tà-dâm dục-vọng, là vi-phạm đến luân-lý đạo đức. Trái lại, đọc Truyện Kiều chúng ta thấy: bàng-bạc trong văn trong lời những đức tính hy-sinh vô-cùng, những kham-nhẫn tột-độ của kiếp nhân-sinh thống khổ.


      Khi đọc truyện Kiều, dù tâm-hồn có sắt-đá bao nhiêu ta cũng không thề dằn lòng mà không rung-cảm, thương cho nàng Kiều vì số "tài-ba bạc-mệnh” thtrơng cho Nguyễn-Du "sinh bất phùag thời", thương cho ta, thương cho những người đã sinh ra trong cuộc thế phù-du ảo-mộng... Lòng thương ấy là gì, nếu không phằi là chữ "Nhân" của Khồng-Từ, chữ "Kiêm-ái” của Mặc-Tử, chữ "Bác-ái" của Jesus Christ và chữ "Từ-bi" của đức Phật?


      Tuy nhiên, ở đây chúng tôi không có ý đề-cao giá-trị văn-chương nghệ-thuật của truyện Kiều, cũng không có ý muốn so sánh Nguyễn-Du với các nhầ đại-văn-hào của nhân-loại, Thiế nghĩ việc ằy coi nhtf thừa vl chinh tác-phẩm và tác-giả đã tự chứng minh cho giá-trị của mình trong quá trình văn-học-sử Việt-Nam và Thế-giới. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ có ý muốn khai-thác một khía cạnh - khía cạnh triết-học tôn-giáo của truyện Kiều - hầu góp một vài nhận xét về truyện Kiều trong văn-đàn Việt-Nam, đồng thời cũng để gọi là món quà văn nghệ trong dịp Kỷ-niệm đệ-nhị-bách chu-niên của một nhà văn tiền-bối, cụ Tiên-Điền Nguyễn-Du mà thôi.


       

      Văn Hóa Nguyệt San, Năm thứ XIV, Quyển 10&11 (Tháng 10&11, 1965)
      Số đặc biệt: Đệ Nhị Bách Chu Niên Thi Hào Nguyễn Du
      (Nguồn: Kệ sách Học xá)

      Thưa quý vị,


      Đửng về khỉa cạnh triểt-học tôn-giáo, chúng ta thấy tư-tưởng triết-học nổi bật nhất trong truyện Kiều là tư-tưởng triết-học Phật-giáo. Điều này cũng không lấy gì làm lạ, vì như chúng ta đã biết: Nguyễn-Du là một nhà Nho-học uyên-thâm, và ở nước ta thời ấy từ Nho-học bước qua Phật-học rất gần, bởi ỉẽ hầu hết kinh-điển của Phật-giáo đều viết bằng chữ Hán. Vả lại, sống trong một mảnh đất "đất lành chim đậu" với truyền-thống "Tam-giáo đồng-quy” này thì không những một mình Nguyễn-Du mà đến cả các nhà văn-hóa đựơng thời hầu hết đều ảnh-hưởng bởi tinh-thần này. Một hệ-thống triết-học xuất-thế cùa Phật-học, một kỷ-cương luân-lý lễ-nghĩa cùa Nho-học và một khuỵnh-hướng vô- vi phóng-khoáng của Lão-Trang đã hòa-hợp vời nhau như nước với sữa, bổ-túc cho nhau như các bộ-phận trong con người để tổng-hợp hòa-đồng thành một nền văn-hóa Việt-Nam có mấy nghìn năm lịch-sử.


      Do đó, truyện Kiều với cụ Nguyễn-Du nói riêng, các tác- phẫm với nhữog nhà văn tiền-bối nói chung, là xây dựng cơ-sở trên nền tảng "Tam-giáo” ấy. Riêng về Truyện Kiều thì dù có nhiều đoạn đề-cập đến những đạo nghĩa luân thường của Nho-học và những ước-vọng tiêu-dao phóng-khoáng cùa Lão-Trang, nhưng kỳ thật ảnh hưởng của tư- tưởng triết-học Phật-giáo bao giờ cũng sâu đậm hơn,


      Thật vậy, điềm độc-đáo của triết-học Phật-giáo là thuyết-minh sự vô-thường hữu-hạn của vũ-trụ nhân-sinh. Đứng về vũ trụ nhân-sinh, Phật giáo chủ-trương rằng: Vạn-vật giữa đời này ỉà nbân-duyên hòa-hơp vời nhau mà sanh, nên không có một vật nào là thật-có, tất cả đều như huyễn, Vì thế nhân sinh, và vũ trụ là vô thường, giả-huyễn, hữu-hạn và đau khổ, Dựa vào quan điểm này của đạo Phật, Cụ Nguyễn-Du trong Truyện Kiều đã mở đầu cho cuốn truyèn của mình bằng những câu thơ sau đây:

      Trăm năm trong cõi người ta,

      Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

      Trải qua một cuộc bể dâu,

      Những điều trông thấy mà đau-đớn lòng!

      Trong 4 câu thơ mở đầu này chúng ta thấy: Tác-giả đã phác-họa ra trước mắt ta một cảnh đờỉ đau thương áo-não của những vô-thường biển đổi, những thăng trầm vinh nhục, những bãi biển nương dâu của cuộc đời. Vì thế đã sinh ra kiếp người, không ai tránh khỏi cảnh vô thường, đau khổ và chết chóc. Chết trẻ, chết già, chết bệnh, chết hoạn, chết vỉ bao nhiêu thử-thách gian-truân của cuộc đời, ít người sống vượt khỏi giới hạn 100 năm, Đố với kiếp người tuy 3 vạn 6 ngàn ngày là dài, nhưng đối với thờ gian vô tận thì nó ngắn-ngủi làm sao!


      Để dỉễn tả rõ ràng về ý-kiến của mình đối với kiếp người vô- thường biển-đồi, Cụ Nguyễn-Du trong Truyện Kiều đã viết như sau:

      Đạm-Tiên nàng ấy xưa ỉà ca-nhi,

      Nổi danh tài-sắc một thì,

      Xôn-xao ngoài cửa thiếu gì yến-anh,

      Phận hồng-nhan có mỏng-manh,

      Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên-hương.

      Một người con gá đã mang nặng số-kiếp "đào-hoa bạc-mệnh”, đă chịu chung số-phận “trâm gãy bình rơi” ở nửa chừng xuân thỉ làm gl có chồng con gia-đình, lấy ai mà săn-sóc hương-khói, sớm viếng tối thăm? Đứng trước cảnh-tượag vẳng-vẻ quạnh-hiu của một nấm mồ chôn người con gái bạc-mệnh ấy, tác-giả viết;

      Sè sè nấm đất bên đường,

      Dàu dàu ngọn cỏ nửa vòng nửa xanh.

      Rồi thi:

      Trải bao thỏ lặn ác tà,

      Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!


      Thật là thê-lương áo-nảo, thật là buồn-thảm đau-thương cho một kiếp người! Suy nghĩ rồi ngẫm đến ta, ai mà không chạnh lòng nghĩ đến số-phận mỉnh trong giờ phút tử-biệt ấy?


      Nhưng định-ỉý vô-thường của cuộc đời không những chỉ diễn-hiện trong lúc tử-biệt mà thôi, nó còn đến với ta trong từng giờ từng phút, trong những cảnh sinh ly nữa! Trong Truyện Kiều, Cụự Nguyễn-Du đã ỉấy Thúy- Kều và Kim-Trọng làm điển-hình để diễn-tả cảnh sinh-ly ấy qua 2 câu thơ sau:

      Ông Tơ gàn quải chi nhau,

      Chưa vui sum-hợp đã sầu chia phôi!

      Rồi đửng trtrớc cảnh taỉ-trời vạ-gió, oan-ức phân-ly của gia-đình, em gái Kiều là nàng Thúy-Yân đã than-thở:

      Cơ trời dâu bể đa-đoan,

      Một nhà để chị riêng oan một mình!

      Cuối cùng, cái gì sẽ đến đã đến và Cụ Nguyễn-Du đã đệt vào trong cảnh sinh-ly ấy giữa nàng Kiều với những người thân-thích trong gia-đình như sau:

      Đau lòng kẻ ở người đì,

      Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tầm.

      Trời hôm mây kéo tối rầm,

      Rầu rầu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương.

      Và sau đó, kbi những ngtrời thân-thích trong gia-đìtth "sau cơn bĩ cực đến thời thái lai" các tai-bìến hoạn-nạn đều tiêu-tan, mọi người gia-quyến được đoàn-tụ vui-vầy trong vinh-hiển thỉ riêng chỉ một nàng Kiều còn lận-đận lao-lung, chìm nổi phiêu-bạc trong bể-khồ mênh-mông không bờ-bến.

      Thương ôi không hợp mà tan,

      Một nhà vinh-hiển rìêng oan một nàng!

      Nhưng vì sao nàng Kiều phải đau-khổ nhtr thế? Trước hết, trên nguyên-tắc chung của kiếp người chúng ta thấy: Sở dĩ nàng Kiều phải đau-khổ là vỉ nàng đã sanh ra trong cuộc đời này, nghĩa là đã mang lấy một xác tbân con người. Đức Khổng-Tử đã nói:


      "Ngô hữu đại hoạn vị ngô hữu thân,

      Ngô nhược vô thân hà hoạn chi hữu"?


      Nghĩa là:


      "Ta có đại-hoạn vì ta có thân,

      Ta nếu không thân làm gì có hoạn"?


      Cũng đồng một quan-niệm như thế, Cụ Nguyễn-Du đã viết:

      Ngẫm hay muôn sự tại Trời,

      Trời kia đã bắt làm người có thân.

      Ad-22 Ad-22

      Hai đoạn văn trên là gíán-tiếp giải-thích định-lý: Đời là bể-khổ của đạo Phật. Trong Phật-giáo, Đức Phật đã dùng thuyết "Tứ đế" để diễn-tả định-luật này. Sở đĩ có đau-khổ (Khổ-đế) là vì có gây ra nguyén-nhân của khổ (Tập-đế). Ngược lại cũng thế. Sờ dĩ có quả-vị Niết-bàn an-vui (Diệt-đế) là vi đã thực-hành theo các phương-pháp chân-chánh (Đạo-đế). Cho nên chúng ta thấy rằng: vì có gây ra nguyên-nbân đau khổ nêa phải chiu kết-quả khổ, và khổ là một định-luật khôog thay đồi của cụộc đời. Nhưng đó là định-lý chung của mọi người. Riêng đối với nàng Kiều thi ngoài định-lý chung trên, còn có những nguyên-nhân khác nữa.


      Trước hết, vì nàng Kiều là người đã làm theo bổn-phận người con, biết hy-sinh minh để cứu cơn tai-biến của gia-đình cha mẹ. Nàng đã:

      Sao cho cốt-nhục vẹn tuyền,

      Trong khi ngộ biến tùng quỳền biết sao.

      Duyên hội-ngộ đức cù lao,

      Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?

      Để lời thệ-ước minh sơn,

      Làm con trước phải đền ơn sinh-thành.

      Nàng Kiều đã vì phụ-thân, vì gia-biến, vi những người thân-thích trong gia-đình, nên đã hy-sình tinh yêu, hy-sinh hạnh-phức cá-nhân, ra đi với nghĩa-vự của người con hiếu-thảo. Và cũng từ đó, nàng bắt đầu gánh chịu bao điều oan-trái đắng cay, bao cảnh đọa-đày lao-khồ cùa kiếp phong-trần!


      Nào là:

         Từ đây góc bề chân trời,

         Nắng mưa thui-thủi, qaê người một thân!


      Nào là:

         Hóa nhi thật có nỡ lòng,

         Làm chi dày tía vò hồng lắm nao!


      Nào là:

         Giọt riêng tầm-tã tuôn mưa,

         Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình!


      Nào là:

         Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

         Giật mình mình lại thương mình xót xa.

         Khi sao phong~gấm rủ là,

         Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.


      Nào là:

         Trúc côn ra sức đập vào,

         Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh.

         Xót thay đào lý một cành,

         Một phen mưa gió tan tành một phen!


      Nào là:

         Lâm-chny chút nghĩa đèo bòng,

         Nước non để chữ tương phùng kiếp sau

         Bốn phương mây trắng một màu,

         Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?


      Nếu đức Phật đã đạy “Đời là một bề khổ mênh-mông không bờ bến", và “Nước mắt của chúng sanh tràn đầy bốn bề đại-dương" thì những gian-khổ oan-khiên, những nhớ nhung thương tiếc, những thử thách gian-truân cùa nàng Kiều trong kiếp sống đọa đày sương gìó lại càng khổ-đau nhiều hơn nữa. Nhìn cuộc đời cùa nàng Kiều ai mà không xót xa thương hại? Chính vì cảm thông vời niềm trắc-ẩn của chủng ta nên cụ Nguyễn-Du trong Truyện Kiều đã thay ta than một lời than bất tuyệt như sau:

      Thương thay cũng một thân người,

      Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!

      Những là oan-khổ ĩưu-ly,

      Chờ cho hết kiếp còn gì là thân?

      Đển đây, chúng ta cần đặt lại câu hỏi: Vì sao cũng đồng một thân người mà nàng Kiều lại bị đọa đày lao khổ đến thế? Ngoài lý-do vì đã mang lấy thân người, vì phụ thân, gia-biến, vì mọi người trong gia đình, còn có lý-do nào khác nữa chăng?


      Trước khì trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiều nguyên nhân đau-khổ theo qưan-niệm của Phật-giáo. Đức Phật dạy: ^Khổ có 8 thứ là sanh-khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, cầu không được là khổ, xa-lìa người thân là khổ, gặp-gỡ kẻ oán-thù là khổ, thân-tâm không điều-hòa là khổ". Nguyên-nhân của các nỗi khổ ấy là tham, sân, si, là mê-mờ dực vọng, nói vắn-tắt là vì cáì tâm tham-dực-chấp-trước của con người. Vậy thì muốn hết khồ ta cần phải tu luyện và phải chấm-dứt cái tâm tham-dục chấp-trước ấy đi.


      Cái tâm tham-dục chấp-trước ấy hiểu một cách phổ-thông tức là tình dục của con người. Dựa vào thuyết-lý này, Cụ Nguyễn-Du đã miêu~tả nguyên-nhân khổ-đaư của nàng Kiều như sau:

      Thúy-Kiều sắc-sảo khôn ngoan,

      Vô-duyên là phận hồng-nhan đã đành.

      Lại mang lấy một chữ "tình",

      Khư khư mình buộc lấy mình vào trong!

      Thật đúng như thế. Nếu nàng Kiều cũng như ai, trong khi chấp kinh tùng quyền nàng cắt đứt tình yêu-thương đối với Kim-Trọng, bớt những lo âu thương-nhớ đối với những người thân-thích trong gia-đlnh thì có lẽ những nỗi khổ đaư của nàng cũng được nhẹ bớt một phần nào chăag? đây thì không. Trong những bước đưừng lao-đao lận-đận, chịu nhiều đọa đày gían-khổ của thề-xác và tinh-thần, bao giờ nàng cũng hồi-tưởng đến những người thân ở quê hương xứ-sở, nhớ đến những lời thề trăng hẹn nước, tiếc rẻ những kỷ-niệm êm-đẹp của thời xưa. Những nỗi-niềm thương-nhớ ấy đã được diễn-tả trong lời tự-than của nàng Kiều sau đây:

      Biết thân đến bước lạc-loài,

      Nhị-đào thà bẻ cho người tình-chung.

      Vì ai ngăn đón gió Đông,

      Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi!

      Hay là:

      Tiếc thay chút nghĩa cũ-càng,

      Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

      Duyên em dầư nối chỉ hồng,

      May ra khi đã tay bồng tay mang.

      Tấc lòng cố-quốc tha-hương,

      Đường kia nỗi nọ, ngổn-ngang bời-bời!

      Ở một chỗ khác trong Truyện Kiều, Cụ Nguyễn-Du lại vẽ ra một nàng Kiều đa-tình đa-cảm trong sổ phận hẩm-hiu của một người coa gái xa tình-quân bằng những-câu thơ như:

      Người về chiếc bóng năm canh,

      Kẻ đi muôn dặm một mình xa-xôi,

      Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

      Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

      Thật đúng là chữ "Tính" đã trói buộc nàng Kiều trong vòng lao-lý, cô-đơn, nhớ thương và đau khổ. Điều này đã được xác-nhận trong giáo-lý của đạo Phật bằng một câu sau đây: "Nước bao giờ cũng chảy xuống; tham-muốn và tình-dục sẽ đưa con người vào đau khổ". Vâng chính lòng tham muốn và tình-dục đẩy con người vào trong vòng trầm-luân đau-khổ, hay nói theo danh-từ của Phật-giáo là nghiệp-báo luân-hồi.


      Ad-22 Ad-22

      Là một nhà nho-học tbâm-sâu, thông-hiểu Phật-lý, Cụ Nguyễn Du đã cảm-nhận một cách sâu-sắc thuyết nghiệp-báo luân-hồi này. Cho nên chứng ta thường thấy bàng-bạc tản-mác trong Truyện Kiều những câu thơ như sau:

      Kiếp xưa đã vụng đường tu,

      Kiếp này chẳng kẻo đền-bù mới xuôi.

      Dẫu sao bình đã vỡ rồi,

      Lấy thân mà trả nợ đời chơ xong!

      Hay câu:

          Người này nặng kiếp oan-gia,

          Còn nhiều nợ lắm sao đà thác oan!


      Hay câu:

          Làm cho sống đọa thác đày, Đ

          Đoạn-trường cho hết kiếp này mới thôi.


      Hay câu:

          Kiếp này duyên đã phụ duyên,

          Dạ-đài còn biết sẽ đền lai sanh.


      Hay câu :

          Phận sao bạc chẳng vừa thôi,

          Khăng khăng buộc mãi lấy ngườí hồng-nhan>

          Đã đành túc-trái tiền~oan,

          Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.


      Dựa vào thuyết-nghiệp báo luân hồi của đạo Phật, chứng ta thấy rằng: Chết không phải là hết. Chết chỉ ià một sự thoát-xác, đổi từ trạng-thái sinh hoạt này qua trạng thái sinh hoạt khác, đau khồ hoặc sung-sướng hơn kiếp này, tùy theo nghiệp nhân mình đã gây tạo ra ở kiếp trước mà thôi.


      Người Việt-Nam chúng ta nói riêng, các dân tộc Á-Đông nói chưng phần nhiều đều hấp-thụ theo tư-tưởng nghiệp-báo luân-hồi này, nên không bao giờ chứng ta tin: Chết là mất hẳn. Tbật thế, một tiếng trống còn gây được vang âm trong những buổi chiều thăm thẳm ở những núi đồi thung lũng; một viên đá rơi vào mặt nước còn khuấy động lên dược những làn sóng lăn tăn lan dần đến nơi vô tận, huống nữa là một kiếp người kết-tinh của nhiều động-tác gây nên bởi hai phần vật-thể và tinh-thần?


      Có lẽ cũng vì lẽ ấy nên người Việt-Nam chúng ta thường có thói quen tín rằng: sau khi chết, vật-chất tan-rã, nhưng lính hồn vẫn còn tồn-tạí, nhất là những người thác-oan, chưa trả hết nợ trần duyèn trong cuộc thế. Linh-hồn ấy thường ở trong chốn u-linh, phảng-phất trong hương khói, và thường bay trở về trần-thế để viếng thăm những nơi có nhiều liên hệ với mình trong khi còn sống, nhất là những ngày húy kỵ, chạp-giỗ v.v... Cũng vì thế nên các gia-đình ở Việt-Nam và các nườc Á-Đông thường có tục-lệ tồ-chức những đình-đám linh-đình trong những ngày kỵ-giỗ.


      Cụ Nguyễn-Du đã diễn-tả tập-quán và lòng tin ấy của giời bình-dân Việt-Nam qua lời căn-dặn của nàng Kiều đối với em gái là nàng Thúy-Vân như sau:

      Mai sau dầu có bao giờ,

      Đốt lò hưong ấy so tơ phiếm này.

      Trông ra ngợn cỏ lá cây,

      Thấy hiu hiu gió là hay chị về.

      Hồn còn mang nặng lời thề,

      Nát thân bồ-liễu đền nghì trúc-mai.

      Dạ-đài vắng mặt khuất lời,

      Rảy xin chén nước cho người thác oan.

      Nhưng có một điều chúng ta cần nhắc lại ở đây rằng: Theo đạo Phật thì ở giữa đời này không có một cái gì tự-nhiên mà có, ngẫu-nhiên mà sanh. Nàng Kiều sở dĩ mang lấy nghiệp-báo "sống-đọa thác-đày" như thế cũng không phải ngẫu-nhiên mà có, tự-nhiên mà sanh. Chính là do túc duyên tiền định, hay nói đúng theo danh-từ đao Phật là theo luật nhân-quả, tức là gây nhân gì thì phải chịu quả ấy. Gây nhân ác thi chiu đau khổ, gây nhân lành thi được hưởng kết quả sung-sướng hạnh-phúc.


      Luật nhân-qưả này đã đưực Cụ Nguỵễn-Dư diễn-tả một cách phổ-thông qua lời báo-mộng cho nàng Kiều của Đạm-Tiên như sau:

      Rỉ rằng nhân-quả dở-dang,

      Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?

      Số còn nặng nghiệp má đào,

      Người dù muốn quỵết, Trời nào đã cho?

      Ở một đoạn khác Cụ Nguyễn-Du lại tiếp:

      Vả trong thần mộng mấy lời,

      Túc-nhân âu cũng có Trời ở trong.

      Kiếp này trả nợ chưa xong,

      Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau?

      Hay là:

      Cho hay muôn sự tại Trời,

      Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta.

      Mấy người bạc-ác tinh-ma,

      Mình làm mình chịu kêu mà ai thương?

      Nhưng trong Truyện Kiều những câu thơ diễn-tả về đạo-lý nhân-quả của đạo Phật rõ-ràng và phổ-thông hơn cả có lẽ là hai câu saư đây:

      Nàng rằng: Lồng-lộng trời cao,

      Hại nhân nhân hại sự nào tại ta?

      Đấy là gì nếu không phải là trình bày một cách khác đi vấn-đề “Thiện-nhân thiện báo, ác-nhân ác báo” (Làm lành thì quả-báo tốt, làm ác thì quả-báo xấu) của Nho-học?


      Ad-22 Ad-22

      Xét sâu vào vấn-đề, chúng ta thấy rằng: những câu như trên ngoài ảnh-hưởng với thuyết nhân-quả của Phật-giáo, Cụ Nguyễn-Du đã đưa ra một vấn-đề rất gần với thuyết "Thiên-mệnh" của Nho-giáo. Và theo Cụ Nguyễn-Du trong Truyện Kíều thì thuyết "Thiên-mệnh" này cũng chính là định lý nhân-quả của đạo Phật. Bởi lẽ đó, có nhiều người trong giới bình-dân Việt-Nam, kể cả nàng Kiều, đều tin một cách chắc-chắn rằng: Họa phúc, may hay rủi, vui hay buồn, tất cả đều đo tíền-định, do Thiên mệnh. Nàng đã tự bào-chữa cho cái tính đa-sầu đa-cảm của mình bằng hai câu thơ sau đây:

      Rằng: quen mất nết đi rồi,

      Tẻ vui thôi cũng tính Trời biểt sao?

      Đối với giới bình-dân Víệt-Nam, khôog những tính-tình là đo "Thiên-mệnh", mà người ta còn tin rằng: mọi thăng trầm vinh-nhục của kiếp người, mọi thay đổi biến thiên của trời đất muôn vật, tất cả đều do Thiên-định. Cỏ lẽ cũng vì thế nên mỗi khi có tai nạn bất ngờ xảy đến như thiên-tai, thủy-nạn, hỏa-hoạa, bệnh tật, mất mùa v.v... họ thường tổ-chức những cuộc sám-tạ, tế-lễ, hay ăn chay nằm đất để cầu trời khấn Phật.


      Có một điều lạ ở đây là: Dù Nguyễn-Du là một nhà Nho-học uyên-thâm, nhưng ông không chịu dừng lại ở thuyết "Thỉên~mệnh", hoàn toàn phó-mặặc số-phận kiếp người cho tha-lực như quan-níệm của Nho giáo, trái lại ông còn tiến xa hơn để đi gần đến định-lý "Nhân-qưả”, hướng mạnh đến tiêư-chuẩn tự-lực tự-cường theo qưan-niệm của Phật-giáo. Theo Cụ Ngưyễn-Du thì dù có thiên-mệnh tiền-định đi nữa, nhưng cũng có nhiều lúc do hành-vi, ngôn ngữ và ý-nghĩ của con người trong hiện-kiếp mà thay đổi. Tiên-sinh đã diễn-tả quan-niệm của mình về vấn-đề này qua những câu thơ sau:

      Sinh rằng: giải cấu là duyên

      Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.

      Hay câư:

          Khi nên Trời cũng chiều người,

          Nhẹ-nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.


      Rồi đến đoạn khác, Cụ Nguyễn-Du lại diễn-tả ý-tưởng của mình qua lời của Đạm-Tiên trong khi tái ngộ với nàng Kiều ở sông Tiền-Đường như sau:

      Chị sao phận mỏng đức dày,

      Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai.

      Tâm thành đã thấu đến trời,

      Bán mình là hiều, cứu người là nhân.

      Một niềm vì nước vì dân,

      Âm-công cất một đồng cân đã già.

      Đoạn-trường sổ rút tên ra,

      Đoạn-trường thơ phải đưa mà trả nhau.

      Còn nhiều hưởng thọ về lâu,

      Duyên xưa đầy-đặn, phúc sau dồi-dào.

      Thậc ra, nàng Kiều với "oan-nợ túc khiên" do tiền-định, và với những đọa-đày lao-khổ trong bước đường lưu-lạc cô-đơn chúng ta rất có thể đã chờ đợi cái kết-quả của phút hẹn-hò trong lần báo-mộng trước của Đạm-Tiên đối vời nàng Kiều, ấy là:

      Hãy xin hết kiếp liễu bồ,

      Sông Tiền-Đường hãy hẹn-hò về sau.

      Nhưng không. Thúy Kiềư là một người con gái hiếu-nghĩa vô-song, tác-giả không mnốn chấm dứt cuộc đời cùa nàng trong một kết-luận đau thương, áo-não và bất còng đến thế. Ông đã muốn thể-hiện đạo-lý "thiện-nhân thiện báo, ác nhân ác báo" của Nho-giáo và Phật-giáo qua cuộc đời của nàng Kiều. Mọi người, kể cả nàng Kiều phải được đáp-ứng tương-xứng với những hành~vi, ngôn-ngữ và ý-nghĩa của mình đã tạo ra. Bởi thế tác giả đã làm cho nàng Kiều sống lại, thoát-ly mọi oan-khìên tiền-định ở sông Tíền-Đường.


      Dựa vào sự-kiện này ta có thể quan-niệm rằag: Đối với nàng Kiều, sông Tiền-Đường là một kết-chung của cuộc đời hồng-nhan bạc-phặn, cuộc đời phó-mặc cho tiền-định rủi-may, bất lực trước mọi hoàn cảnh éo-le thử-thách; nhưng đồng thời sông Tiền-Đường đối vời nàng Kiều cững là một khởi-điềm cho cuộc đời mới, cuộc đời hướng đến tự-lực và nội-tâm, rưới tắt trần-duyên, trau dồi đức-hạnh giải-thoát. Cuộc đời ấy theo Cụ Nguyễn-Du là:

      Phật-tiền thảm lấp sầu vùi,

      Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm-hương,

      Cho hay giọt nước cành dương,

      Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần-duyên.

      Điểm đặo biệt của đạo Phật là ở chỗ: đại-phàm con người dù tội-lỗi bao nhiêu, nhơ-nhớp đến bậc nào, nhưng nếu biết thành-tâm sám-hối thì cũng có thề trở thành người hiền-lương trong sạch được. Bởi vì theo Phật-giáo thì cáí tội-lỗi nhơ-nhớp của con ngưừi không phải hoàn-toàn do ở ngoại-diện, mà lại căn-cứ vào những ý-niệm tiềm-tàng trong tâm thức của người ấy.


      Có người dù có một bề ngoài hiền-lành sang-trọng, nhưng nếu trong lòng chất-chứa những bất-lương gian-ác thì đó ià người tội-ác xấu-xa, và trái lại, dù có một bề ngoài thấp-kém thô-bạo, nhưng nếu trong lòng ẩn-chứa những đức-tánh hiền lương thiện-mỹ thì đó là người trong-sạch cao-quý. Đức Phật ngày xưa đã từng độ cho một người chuyên làm nghề gánh phân, ở giai cấp hạ-tiện bần-cùng nhất của xã-hội Ấn-Độ; trong lịch sử Phật-giáo Trung-Hoa cũng thường kể lại câu chuyện: có một người suốt đời làm nghề đồ tể, chuyên bán thịt heo, nhưng khi sắp lâm-chung biết hồi tâm hướng thiện, nên cuối cùng cũng được giải-thoát. Câu "Nhất cú Di-Đà vô biệt niệm, bất lao đồn chỉ đáo Tây-phương" hay câu "Hồi đầu thị ngạn" của Tịnh-Độ-tôn trong Phật-giáo là chứng minh cho điển-tích này.


      Ở đây nàng Kiều cũng thế, dù trong bưức đường "sóng gió ba đào", nàng đã bao lằn thăng trầm vinh-nhục, mấy phen lầu xanh gác tía, nhưng đó chỉ là số-phận của người "bán mình chuộc cha", chứ thâm-tâm thì không muốn như thế. Nàng đã nhiều lần chán ngán số kiềp long-đong, ê-chề với cảnh lầu xanh gác-tía và đã tự than thở:

      Chém cha cái số hoa đào,

      Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!

      Căn cử vào ý-nghĩa "chấp-kinh tùng quyền", căn cứ vào tâm-niệm "gằn bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", căn cứ vào tấm lòng hiếu-nghĩa đối với cha mẹ gia-đình, nhất là căn~cứ vào niềm chung-thủy đối với tình-quân trong câu thơ:

      Tái sinh chưa dứt hưưng-thề,

      Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc-mai.

      Nợ tình chưa trả cho ai,

      Khối tình mang xuống tuyền-đài chưa tan!

      thì chúng ta có thể hiễu đươc cảnh ngộ và tâm-tình của nàng Kiều rối. Không những đối với Kim-Trọng, chàng trai đã chiếm trọn tình yêu của nàng, đến như đối với Từ-Hải, người gá nghĩa trong bước đường luân-lạc, nàng cũng có một niềm chung-thủy như thế. Có người cho rằng: nàng Kiều là người "một dạ hai lòng", mưu mô phản trắc, vì đã đưa Từ-Hải đến cảnh sa-cơ thất-mạng, nhưng chúng ta hãy căn-cứ vào tấm lòng của nàug trong bài thơ sau đây rồi sẽ phê-phán. Thơ rằng:

      Khóc rằng: trí dũng có thừa,

      Bởi nghe lời thiẽp đến cơ-hội này.

      Mặt nào trông thấy nhau đây,

      Thà liều sống chết một ngày có nhau.

      Và "tấm lòng” ấy đã trở thành sự thật. Nàng Kiều đã nhảy xuống Tiền-Đường để tự-vẫn.


      Ad-22 Ad-22

      Căn-cứ vào niềm chung-thủy của nàng Kiều đối với tình quân qua hai bài thơ trên, dù có khe-khắt đến đâu ta cũng phải tán-đồng quan-điểm của Tam-Hợp Đạo-cô trong đoạn thơ sau đây:

      Xét trong tội-nghiệp Thúy-Kiềư,

      Mắc điều tình ái, khỏi điều tà-dâm.

      Lấy tình thâm trả tình thâm,

      Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời.

      Hại một người, cứu trăm người,

      Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.

      Thừa công-đức ấy ai bằng,

      Túc-khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

      Vâng, nhờ công-đức hy-sinh cho cha mẹ gia-đình, nhờ tấm lòng trung chánh đối với người tình-quân, nhờ nước sông Tiền-Đường rửa sạch bụi-trần tơ-duyên, nhắt là nhờ ý-chí sám-hối, cắt đứt duyén-nợ ba-sinh, nên từ đó nàng đã trở thành một người trong sạch từ thân đến tâm, từ trong ra ngoài. Vì thế ta cũng không ngạc-nhiên đến lòng từ-bi quảng-đại của đạo Phật qua hành-vi cứu rỗi của Ni-Sư Giác-Duyên qua lời tường thuật sau đây:

      Khi nàng gieo ngọc trầm châu,

      Đón nhau, tôi đã gặp nhau rước về.

      Cùng nhau nương cửa Bồ Đề,

      Thảo-am đó cũng gần kề chẳng xa.

      Thật là một nghĩa-cử cao đẹp! Cửa Bồ-Đề thật là quảng-đại vô-biên! Nếu Cụ Nguyễn-Du cũng cố chấp vào những giáo điều khô cứng, câu nệ bảo-thủ theo những lề-iối thông thường như những người khác, không chịu linh-động khai-thông ra thì rất khó mà có một kết-luận từ-bi nhân-đức như thế. Tuy-nhìên, đôi khi cũng vì kết-luận này nên đã có những ngườí vịn vào đó mà mỉa-maí xuyên-tạc Phật-gíáo!


      Ở đây chứng tôi không có ý-muốn thanh-minh bay bênh vực cho Phật-giáo, vì việc ấy thiết-nghĩ như thừa. Chứng tôi chỉ muốn nhân sự-kiện này để đề-cập đến một vấn-đề kbác, vấn-đề chú-trọng đến phần tâm-thức của Phật-giáo mà thôi. Trong kinh-luận của Phật-giáo thường chép: “Tam-giới duy-tâm, vạn pbáp duy-thức". Vì thế theo đạo Phật thì tâm là chủ-tể của muôn vật, Tâm là động-cơ chính thúc đầy ta đi đến hành-động, và hành-động đó thiện hay ác, tốt hay xấu, một phần lớn là phải căn-cứ vào tâm.


      Tâm thiện thì dù bề ngoài có vẻ độc-ác thô động, như trường-hợp cha mẹ đánh-đập đứa con hư, thày giáo trừng-pbạt cậu học trò lườí-nhác v.v... đều thuộc về thiện. Trái lạí, nếu tâm ác dù bề ngoài có vẻ êm dịu ngọt-ngào, như trường-hợp người thợ săn rình-mò để sập bẫy con vật, kẻ nịnh thần dùng những lời ngon-ngọt đề lung-lạc tâm vua v.v... cững đều thuộc về ác. Do đó muốn phê-phán một việc làm thiện hay ác, tốt hay xấu, chúng ta cần phải căn-cứ vào tâm-niệm và kết-quả của việc làm ấy, chứ không thề hoàn-toàn dựa vào những động-tác bên ngoài được.


      Ở đây, nàng Kiều cũng thế. Muốn xét giá-trị của nàng Kiều, nhất là phê-phán việc làm của nàng, chúng ta cần phải đựa vào tâm-niệm và kết quả của việc làm ấy, mới khỏi thiên-lệch, cố-chấp và bất công. Số-phận của nàng Kiều, cũng như việc làm của nàng, Cụ Nguyễn-Du qua lời an-ủi và giải-thích của Kim-Trọng đã trình-bày như sau:

      Xưa nay trong đạo đàn bà,

      Chữ "trinh" kia cũng có ba bảy đương.

      Có khi biến có khi thường,

      Có quyền nào phải một đường chãp kinh.

      Như nàng lấy "hiếu" làm trinh,

      Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

      Người nội cuộc như Kim Trọng mà còn có thái độ và nhận-xét ấy đối với nàng Kiều, thì những người như chúng ta trong khi phê~phán nàng Kiều, truyện Kiều, cũng như tác-giả của nó, có nên có một thái-độ quá khe-khắt gò bó chăng? Câu trả lời này chúng tôi xin nhường lại cho quí vị hiện-diện ờ đây và quí vị học-giả cao-minh khác.


      Như trên chúng ta đã thấy: tâm có một cương-vị đặc-biệt trong việc quyết-định giá-trị những hành-vi tbiện-ác, tốt xấu của kiếp người, thì dĩ nhiên ngoài cương-vị ấy, tâm còn có những sức mạnh khác nữa. Sức mạnh chúng tôi muuốn đề-cập ở đây là sức mạnh chế-tác của tâm. Chế tác bằng tư tưởng, bằog tâm-tìnb và bằng khái-niệm.


      Sức mạnh của tư-tưởng là sửc mạnh đã làm cho con người khác-biệt với các loài động-vật thực-vật khác qna lời nói của một triết-gia Âu-Tây sau đây:

      "Con người là một cây sậy có tư-tưởng."


      Sức mạnh cùa tâm-tình là thề-hiện trong câư:

      Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

      Người bùồn cảnh có vui đâu bao giờ?

      Và sức mạnh của khái-niệm là:

      "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại."


      Hoặc:

      "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề".


      Kháí-niệm về không gian và thời-gian này đã đưọc diễn-đạt trong Truyện Kiều bằng 2 câu thơ saư:

      Sầu đong càng khắc càng đầy,

      Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

      Đó là gì nếu không phải là triết-lý duy-tâm duy-thức của Phật-giáo. Ngoài những khía-cạnh tư-tưởng, tâm-tình và khái-niệm trên, trong Truyện Kiều, Cụ Nguyễn-Du còn diễn-tả sức mạnh của tâm, tức là triết-lý duy-tâm duy-thức cửa Phật-giáo qua hai câu thơ tuyệt-tác sau đây nữa. Đó là:

      Lĩnh lời nàng mớỉ theo sang,

      Biết đâu địa-ngục, thiên-đàng là đâu?

      Vâng, đúng như thế. Thiên-đàng và đia-ngực không phải ỏ đâu xa lạ, mà chính ngay ở trước mắt ta, bên cạnh ta bàng-bạc khắp cả cõi đời này, không biết đâu mà phân biệt được. Hạnh-phúc và đau khồ cũng thế. Đức Phật đã dạy:

      Tri túc chi nhân, tuy ngọa địa thượng, nhi vi an lạc.

      Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường, nhi bắt xứng ỷ.

      (Người biết đủ thì dù nằm trên đất cũng được an-lạc. Người không biết đủ thì dù ở trên thiên-đường cũng không vừa ý).


      Ad-22 Ad-22

      Căn-cứ vào thuyết lý này chúng ta thấy: Hạnh-phức hay đau-khổ, đầy-đủ hay thiếu-thốn, tất cẳ đều do lòng mình. Thiên-đường hay địa ngục không có phương-hướng và ranh-giới nhất-định, ở đâu cũng có cả. Ngay trong kiếp sống của con người và trong thế-giới nhân-gian nàỵ cũng có. Cụ Nguyễn-Du đã diễn-đạt tư tưởng cùa mình qua hai câu thơ sau:

      Nước trôi hoa rụng đã yên,

      Hay đâu địa ngục ở miền nhân-gian?

      Nếu đem các câu thơ trên của Nguyễn-Du so-sánh với hai câu sau đây của Trung Hoa;

      "Ngưu ẩm thủy thành nhũ,

      Xà ẩm thủy thành độc”

      (Trâu uống nước thành sữa,

      Rắn uống nước thành độc)


      Rồi đem so-sánh với mấy câu thơ sau đây của thi-sĩ Milton:


      "The mind is its own place and in itself,

      Can make a heaven of hell,

      A hell of heaven".

      (Bản-chất cùa tâm là có thể,

      Tạo cảnh thiên-đường trong địa ngục,

      Tạo cảnh địa-ngục trong thiên-đường).


      thì chúng ta sẽ thấy điểm không “hẹn mà gặp" giữa muôn cảm-hứng của các thi-nhân Đông và Tây trong những cố-gẳng diễn-đạt triết-học duy-tâm dưy-thức cửa Phật-giáo.


      Vì chủ-trương "Tam giới duy~tâm, vạn-pháp duy-thức" nên Phật-giáo phủ-nhận mọi sức mạnh siêu-nhiên và tự-nhiên ở bên ngoài. Phật giáo quy-định mọi giá-trị, mọi khía-cạnh cùa cuộc đời về cho sức mạnh của tự-tâm. Tâm tạo thiên-đường địa-ngục, tâm tạo niết-bàn sanh-tử, tâm tạo Phật chúng-sanh, tâm lạo hạnh-phúc đau khổ v.v... Nói một cách khác, tâm (hoặc là nghiệp-lực) tạo ra tất cả và tâm là chủ-động-lực của đời mình.


      Tồng-hựp cả 2 quan-niệm của Phật-giáo và Nho-giáo về sức mạnh của tự-tâm, Cụ Nguyễn-Du trong truyện Kiều đã diễn-đạt ý-tưởng của mình qua lời của Ni-cô Tam-Hợp như saư:

      Sư rằng: Phúc họa tại Trời,

      Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.

      Có Trời mà cũng tại ta,

      Tu là cõi phúc, tình là dây oan.

      Và sau khí phác-họs đầy đủ mọi khía-cạnh của cuộc đời, mọi thay đồi bíến-thiên của nhân-sinh vũ~trụ và mọi thăng-trầm vinh-nhục của nàng Kiều, ở đoạn-kết của cnốn Truyện, Cụ Nguyễn-Du đã viết:

      Đã mang lấy nghiệp vào thân,

      Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

      Thiện-căn ở tại lòng ta,

      Chữ Tãm kia mới bằng ba chữ Tài.

      Thưa quí vị,


      Từ trên đến đây chúng tôi đã cùng với qúi vị xét qua một vài khía-cạnh triết-học tôn-giáo trong Truyện Kiều. Chúng tôi nói một vàí khía-cạnh, vì trong Truyện Kiều ẩn chứa nhiều quan-níệm nhân-sinh, triết-học tôn-giáo, thực-trạng xã-hội và khía-cạnh tâm-lý của con người đầy đủ cả cảc phưưng-diện tốt xấư, khen chê, vinh nhục, thịnh suy, thiện ác v.v... muôn màu muôn sắc, không làm sao diễn tả hết trong thời- gian và phạm-ví của một bài thuyết-trình được.


      Tuy nhiên, có lẽ quí vị cũng đồng ý với chúng tôi rằng: khi đọc Truyện Kiều chúng ta không thể nào không thổn thức cho số-kiếp đọa đàỵ lao khồ của nàng Kiều. Chính tâm-trạng này đưa đến cho chứng ta một liên tưởng "suy người rồi nghĩ đến ta", và từ đó tự nhiên trào dậy trong lòng một tình thương man-mác. Thương cho số-pbận đào hoa bạc-phận của nàng Kiều chăng? Thương cho Nguyễn-Du lận-đận trên đường công đanh sự-nghiệp của thời Lê-mạt Nguyễn-sơ chăng? Hay thương cbo ta, cho mọi người đang sống trong cảnh bèo mây mộng-ảo ở chốn trầm-luân khổ-hải nầy chăng? Khòng, tình thương ấy không có thời-gian và định-hướng. Ta thương cho tất cả. Đấy là gì nếu không phải là lòng từ bi cùa đạo Phật?


      Và như thế ta đã đáp lại nỗi lòng băn-khoăn thao-thức của Cụ Nguyễn Du trong hai câu thơ:

      Bất tri tam bách dư niên hậu,

      Thiên hạ hà nhân khấp Tố-Như?

      (Không biết rồi đây ba trăm năm sau,

      Trong thiên-hạ ai người khóc Tõ-như?)

      Một nhà văn đã dịch 2 câu thơ ấy ra Anh-văn như sau:

      Three hundred years after I die,

      Who will remember and weep over Tố Như?

      Song sọag với ý-niệm về tình thương ấy, khi đọc truyện Kiều chúng ta cảm thấy: Con người trước hết là một vật yếu hèn bất lực, nhưng nhờ ý-chí phấn-đấu liên-tực nên cuối cùng con người sẽ thắng được định-mệnh, vượt khỏi mọi bất còng thử thách để xây-dựng cho tương-lai của mình. Câu châm-ngôn của Tây phtrơng "Thất-bại là mẹ đẻ của thành-công", và câu phương-ngôn của Đông-phương "Nanatsu taori, yatsu okiru” (Nhật-Bản), (Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy) đã được thể-hiện hoàn-toàn trong nhân-vật chính của truyện Kiều, đó là nàng Kiều. Đấy là gì nếu không phải là triết-lý nhân-bản, truyền-thống của các dân-tộc Á-Đông?


      Thêm một điều nữa, đọc Truyện Kiều chúng ta thấy: Tác-phẩm này là thể-hiện cùa một tinh-thần tổng-hợp đẹp đẽ của các nền tư tưởng Đông pbương là Phật giáo, Nho-giáo và Lão-giáo. Ba nền triết-học này đã dung-hòa linh-động trong công-cuộc đúc-kết thành sắc-thái đặc-biệt và phong-phú cửa nền văn-hóa Việt-Nam. Chính sắc-thái này đã tạo ra truyền thống dung-hợp nhưng không nô-lệ, hiền hòa nhưng bất-khuất của dân tộc ta trải qua bao cuộc chống xăm lăng, giành độc-lập cửa ông cha chúng ta từ xưa, và ngay cả thế-hệ của chúng ta bây giờ nữa.


      Có lẽ vì lý-do trên, nên đạí đa-số quần-chứng Việt-Nam từ bình-dân cho đến giới trí-thức đều ham-thích đọc Truyện Kiều, công nhận giá-trị của Truyện Kiều, nhất là giá-trị đóng-góp cùa nó trong các lãnh-vực văn-học, triết-hoc, tôn-giáo, xã-hội và tư-tưởng của Việt-Nam. Và có lẽ cùng vì thế nên người Việt-Nam chúng ta đón nhận tác-pbẩm Truyện Kiềư như một vật thân-yêu phản-chiếu từ đờí mình, lòng mình vậy.


      Ad-22 Ad-22

      Để kết luận bài thưyết-trình hôm nay, thiết-nghĩ không gì hơn là mượn lời của ông Tổng-Ủy-Viên Văn-Hóa Xã-Hội, kiêm Ủy-Viên Giáo Dục trong bài diễn-văn đọc tại Nhà Văn-Hóa ngày mồng 3-10-65 nhân-dip khai-mạc lễ kỷ-niệm 200 năm của Thi-hào Nguyễn-Du. Trocg bài diễn-văn ấy có một đoạn như sau:

      "Trong nền văn-chương thế-giới, Truyện Kiều cũng như bản trường-ca Rubaiyat của Omar Khayyam xứ Ba-Tư, Bhavagad Gita của Ấn Độ, đã tự-nhiên thành một áng văn-chương tiêu-biểu cho cả một dân-tộc. Không có một tác phẩm văn-chương nào đã được phổ-biến một cách sâu rộng như thế trong dân gian, từ những người thượng-lưu trí-thức cho đến người nông-dân hay lao-động cần-cù không biẽt đọc biết viết và chưa bao giờ ra khỏi lũy tre xanh. Không có một công-trình sáng-tạo nào đã qua sự phê-phán của thời-gian, qua những lúc hiểư lầm, qưa sự nổ1 chìm của lịch sử, mà càng ngày lại càng trong-sáng hơn như Truyện Kiều.


      "Văn chương Truyện Kiều có những câu mà thi-tứ phải hiểu qua tinh hoa của thơ Lý-Đỗ; và có những hình ảnh, những rung-cảm, những âm-điệu mà thơ tượng-trưng hay siêu-thực của Tây-phương cận-đại mới khám-phá ra. Nhưng đồng thời cũng vẫn là văn kể chuyện, giản dị, bình-dân và nhẹ-nhàng, để người ta có thể, dưới ánh đèn dầu của một căn nhà tranh vách đất, đọc cho nhau nghe trong những buổi tối gia-đình hầu an-ủi nghỉ ngơi sau một ngày mệt-nhọc.


      "Truyện Kiều cũng đã vượt lên trên cái quan-niệm chật hẹp của những nhà Nho-cổ, cái qưan-niệm "Văn chương luân-lý", "Văn-chương giáo điều", cái quan-niệm đã làm cho các Cụ ta cấm đàn bà con gái đọc Kiều và đã gây ra một cuộc tranh luận mà dư-âm, từ đầu thế-kỷ tới bây giờ vẫn còn vang trong sách giáo-khoa. Truyện Kiều trong văn-chương Việt-Nam là cuốn tiểu thuyết tâm-lý đầu tiên, và đồng thời — một điều chưa từng thấy trong văn-chương thế-giới — cũng là một bức bích-họa xã-hội vô cùng chân thật và rộng lớn".

      Theo chúng tôí giá-trị văn-chương, nghệ-thuật, thẩm-mỹ của Truyện Kiều là ở đó, và giá-trị triết-học tôn~giáo trong tinh-thần tổng-hợp linh-động của "Tam-giáo đồng-quy” cũng thể-hiện trong Truyện Kiều ở đó. Vì thế gạt ra ngoài những ý-kiến dị-đồng, những lời khen chê phê-phán qua dòng thời-gian và lịch-sử, chúng tôi muốn xác-định nơi đây sự đóng góp của Truyện Kiều trong nền văn-hóa của dân-tộc và nhân-loại.


      Thích Thiên Ân

      Nguồn: Văn Hóa Nguyệt San
      Năm thứ XIV, Quyển 10&11 (Tháng 10&11, 1965)
      Số đặc biệt: Đệ Nhị Bách Chu Niên Thi Hào Nguyễn Du

      * Nguyên-văn bài diễn-thuyết tạí Thínb-đường Trường Quốc-gia Âm nhạc và Kịch-nghệ, ngày Cbủ-nhật 21-11-1965 do Hội Việt-Nam Nghiên-cứu Liên lạc Văn-hóa Á-châu và Phân khoa Văn-học Khoa-học Nhân-văn thuộc Viện Đại-học Vạn-Hạnh tổ chức vào dịp "Kỷ niệm 200 năm thi-hào Nguyễn-Du".


      Ad-22 Ad-22


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Giá Trị Triết Học Tôn Giáo Trong Truyện Kiều Thích Thiên Ân Tiểu luận

    3. Tiểu Luận (Học Xá) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)
  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)