|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
(Cám ơn nhà thơ Thành Tôn đã cắt dán trình bày Tập thơ Trường Ca của tác-giả Trần Văn Nam (gồm 2 bài thơ trường ca và một bản dịch qua Anh ngữ). Anh Thành Tôn lại sưu tập cho vào thêm một bài trường ca thứ 3 của tác giả, nhan đề: “Những Dời Đổi Địa Hình và Mối Hoài Cảm Thi Ca”. Tảc giả nghĩ đó là một bài văn xuôi tùy-bút viết về những biển dâu địa-chất-học của Lịch Sử thành lập đất Việt ngàn triệu năm trước; lồng vào trong ấy 9 bài thơ lục-bát cảm hứng về địa-hình dời đổi, sáng tác từ năm 1976 đến 1979. Cám ơn nhà thơ đã cảm nhận đây là loại văn-bản có tính chất của một bài thơ trường ca - Trần Văn Nam)
Những hiểu biết về địa hình dâu biển của đất Việt kể lại dưới đây được viết theo trí nhớ dựa vào hai cuốn “Lịch Sử Thành Lập Đất Việt” của tác giả Trần Kim Thạch (xuất bản năm 1970) và “Thiên Nhiên Việt Nam” của tác giả Lê Bá Thảo (xuất bản năm 1977).
1/. Vào khoảng 25 triệu năm trước, Sông Hồng Sông Lô chảy trên một vùng núi cao gần 100m đối với vị trí mặt sông bây giờ. Đó là do sự bào mòn đào xới của dòng nước. Bây giờ đi trên sông, có những nơi vách đá dựng đứng. Khoảng trống mà dòng sông đi ở giữa là toàn bộ khối đất đá bị đem hết ra biển dưới dạng phù sa sỏi cát:
Bầu Trời Hẻm Vực Sông Lô
Bầu trời hẻm vực trên sông
Hai bên vách đứng thuyền không có bờ
Đào sâu thung lũng bao giờ
Con sông xẻ núi réo chờ biển khơi
Sông Lô trăm thước ven trời
Bây giờ xuống thấp cho đời giao thương.
(Thơ làm năm 1979)
2/. Xa xôi hơn nữa, vào khoảng 250 triệu năm trước, khi vận động tạo núi Hi Mã Lạp Sơn do hai lục địa trôi giạt đụng vào nhau, ảnh hưởng giây chuyền của trận va chạm lục địa đã tạo ra các vùng núi non ở Bắc Việt, mạnh mẽ nhất là tạo ra cao nguyên Châu Mộc do địa hình trũng thấp hai bên sông Đà bị uốn cong lên thành những nếp gấp khổng lồ:
Đàn Bò Sữa Trên Châu Mộc
Vận động IN-ĐÔ-XI-NI
Kéo hai dãy núi chen ghì vào nhau
Trũng sâu uốn nếp chồm mau
Cao nguyên thành lập ngàn sau xanh rờn
Bây giờ trời đất cao hơn
Đàn bò sữa ngóng mây vờn thảo nguyên
Biển dâu cải biến lâm tuyền
Đồng chăn Châu Mộc trăng huyền lên cao.
(Thơ làm năm 1978)
3/. Ca dao xưa có câu: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù - Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”. Đọc qua, ta có cảm nghĩ cửa Thần Phù là một vùng biển sâu đầy sóng gió. Xưa kia thì như vậy, ngày nay cửa Thần Phù không còn nữa. Cửa biển này bây giờ đã lùi sâu vào đất liền đến 8 cây số. Đó là do phù sa của các sông bồi lắng. Sự hình thành do phát triển dần Châu Thổ Bắc Việt đến nay vẫn còn đang tiếp diễn, phù sa bồi tụ lấn dần ra biển:
Qua Cánh Đồng Thần Phù
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Ngày xưa biển cả tuyệt mù sóng xanh
Bây giờ gió nội đồng quanh
Giật mình còn tưởng âm thanh biển trời
Biển bờ rút nước ra khơi
Phù sa bồi đắp tặng người thế gian.
(Thơ làm năm 1978)
4/. Phá Tam Giang ngày xưa cũng là nơi sóng dữ khó qua. Ca dao vẫn còn lưu truyền: “Yêu em anh cũng muốn vô - Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Phá Tam Giang là nơi ba cửa sông Ô Lâu đổ ra biển. Phá Tam Giang nằm lọt trong Phá Thuận An. Ngày xưa cửa phá nằm xa hơn về phía Nam. Năm 1897, một cơn bão dữ dội đem tới một đợt sóng thần đưa cát từ biển khơi về làm cửa Phá cũ bị lấp và một cửa Phá mới được thành hình ở Phía Bắc. Cửa Phá cũ bây giờ là một cồn cát cao chừng 5 mét, dài và rộng chừng một cây số. Cửa lấp ấy cũng đã được dân gian lưu truyền qua ca dao: “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn - Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm”:
Phá Tam Giang Đã Cạn
Cách nay gần đúng trăm năm
Sóng thần từ biển xa xăm đổ về
Sau cơn giông bão bốn bề
Những cồn cát chắn nặng nề giăng ngang
Bây giờ qua Phá Tam Giang
Ba sông lặng sóng nhắn chàng yên tâm.
(Thơ làm năm 1979)
5/. Cam Ranh là một trong vài vịnh biển tốt nhất thế giới. Diện tích rộng gần 350 cây số vuông. Bán đảo Cam Ranh vươn dài ra biển 12 cây số. Vịnh biển được che chở bốn phía do núi dài vây bọc, chỉ thông ra biển bằng một eo biển. Vịnh biển rộng mà lại sâu, được che chở bốn phía núi non, có thể chứa được cả một hạm đội lớn vào trú ẩn, dễ kiểm soát chống tàu ngầm và phi cơ đến tấn công. Biển trong vùng Vịnh rất yên lặng làm bồi tụ cát ở ven bờ, mà cát bồi tụ ở Cam Ranh là loại cát tốt nhất thế giới về độ tinh khiết cho chế tạo pha lê và kính quang học. Trữ lượng cát ở Cam Ranh lại rất lớn, có đến hàng trăm triệu tấn:
Sóng Biển Tắt Dần Trong Vịnh Cam Ranh
Mênh mang sóng biển tắt dần
Trùng khơi cát đến trắng ngần biển xanh
Núi ngoài vây bọc Cam Ranh
Vịnh trong bồi tụ những thành cát xây
Miên man trữ lượng sâu dầy
Cám ơn biển lớn cho đầy tài nguyên.
(Thơ làm năm 1979)
6/. Vùng hạ lưu sông Đồng Nai quanh Hố Nai, Long Bình và Thủ Đức có những vùng đồi cao đến 100 mét, rất rộng, thoai thoải. Đó là các vùng phù sa cổ. Sông Đồng Nai nhỏ, không đủ sức tạo ra các vùng phù sa cổ ấy. Nên có thể chính sông Cửu Long thuở xa xưa đã chảy qua vùng này và tạo ra các bậc thềm phù sa ấy. Về sau, do vận động tạo núi ở Cam Bốt làm cho Nam Bộ sụt lún xuống thấp dần về vịnh Biển, do đó sông Cửu Long trượt dần về phía Nam ở vị trí bây giờ, từ giã vùng Biên Hòa nhưng vẫn còn lưu dấu là các vùng phù sa cổ rất cao rất rộng và những trũng thấp khép kín thường thấy ở Hậu Nghĩa, Tây Ninh và Biên Hòa:
Sông Cửu Long Từng Qua Sài Gòn
Biên Hòa đất gợn nhiều nơi
Do phù sa cổ tạo đồi lấp hang
Sài Gòn đổ nắng chói chang
Nước ngầm sông cũ tiềm tàng mộng xanh
Với di tích cổ lập thành
Ngày xưa Sông Mẹ đã quành qua đây
Nay sông dời xuống chân mây
Phù sa lớp lớp theo đầy dòng trôi
Lại xây đắp lại tô bồi
Cho miền Tây cũng đâm chồi trổ bông.
(Thơ làm năm 1978)
7/. Vùng Long Khánh hiện vẫn còn lưu dấu hơn một trăm núi lửa, hình dạng các hỏa sơn vẫn còn hiện rõ. Cách đây vài chục triệu năm, hơn 100 ngọn núi ấy đều hoạt động, lửa ngút trời, tro bụi mịt mù bao phủ. Ngày nay tất cả đều ngưng hoạt động, chỉ còn là những sóng đất im lìm, toàn vùng được trải đều bằng một lớp đất đỏ với bề dầy độ chừng 5-10 mét. Dưới 10 mét là các lớp đá do lửa lỏng từ các hỏa sơn chảy xuống và rắn lại, chưa bị tan rã thành đất đỏ:
Long Khánh Trong Mù Mịt Hỏa Diệm Sơn
Trăm núi lửa cháy bập bùng
Một trời tro bụi mịt mùng hỗn mang
Triệu năm sau, đất hóa vàng
Qua vùng Long Khánh xóm làng tịnh yên
Rừng cao su gió nổi rền
Nghe như thiên địa bồi đền tiêu vong.
(Thơ làm năm 1979)
8/. Thuở xa xưa, dãy Trường Sơn chỉ kéo dài đến Quảng Ngãi mà thôi, dưới nữa là biển. Biển đó mang tên là Vịnh Nam. Cát bụi phù sa do các dòng sông ở đất liền đổ vào Vịnh Nam, bồi tụ dưới đáy thềm lục địa, rồi do vận động tạo núi nâng lên thành những ngọn núi gọi là Trường Sơn Nam, và nối liền vào Trường Sơn Bắc làm thành hình dạng đất Việt như bây giờ:
Cát Bụi Làm Nên Trường Sơn Nam
Trường Sơn đến Quảng Ngãi thôi
Dưới nữa là biển sóng nhồi Vịnh Nam
Mưa mùa nước lũ sông lam
Sông mài đá núi xuống làm phù sa
Đất bùn tích tụ bao la
Chất thành dãy núi nhô ra biển trời
Nam Sơn từ đáy biển khơi
Nối vào muôn đỉnh Vạn đời Trường Sơn.
(Thơ làm năm 1976)
9/. Triệu triệu năm trước, núi Sam núi Sập ở vùng Châu Đốc Long Xuyên còn nằm sâu dưới lòng đất. Mưa gió bào mòn đất làm trồi lên các ngọn núi đó:
Gió Mưa Mài Mòn Châu Đốc
Đất xưa thẳng tắp chân trời
Núi vùng Châu Đốc một thời có đâu
Dưới lòng đất, núi vùi sâu
Gió mưa mài mặt địa cầu vạn niên
Trồi lên mặt phẳng bưng biền
Núi Sam núi Sập vào miền nhân gian.
(Thơ làm năm 1976)
TRẦN VĂN NAM
(Trích nơi cuốn sách “Trong Dòng Cảm Thức Văn Học Miền Nam-Phân Định Thi ca Hải Ngoại”, từ trang 115. Sách xuất bản năm 2006 tại California)
- Nghĩ Về Di-Cảo Mấy Ngàn Trang Của Một Nhà Thơ Yểu Mệnh Trần Văn Nam Nhận định
- Tình Quê Tường Thuật Và Tình Quê Thăng Hoa Trong Thi Ca (Qua Thơ Đạm Thạch) Trần Văn Nam Nhận định
- Giang Hữu Tuyên, Nhà Thơ Hải Quân Nhưng Tâm Hồn Hướng Về Châu Thổ Trần Văn Nam Nhận định
- Có hay không sự chuyển đổi tình cảm trong thơ phổ nhạc Trần Văn Nam Nhận định
- Trường ca khi ở trên tầng bình lưu Trần Văn Nam Thơ
- Hà Nguyên Du đi giữa Duy Mỹ của Thơ Cũ và rất Hiện Đại của Thơ Tân Hình Thức Trần Văn Nam Nhận định
- Với nhà văn Mặc Đỗ, ta biết thêm vài điều qua cuốn sách mới nhất của ông Trần Văn Nam Nhận định
- Nhà Văn Lữ Quỳnh Viết Truyện Phản Chiến Ở Vị Trí Và Bối Cảnh Nào? Trần Văn Nam Nhận định
- Dẫn Lược Từng Chương Tiểu Thuyết Danh Tiếng của Thomas Hardy Trần Văn Nam Giới thiệu
- Chất Thơ Do Cảm Nhận Vài Kiến Thức Về Tư Tưởng Của Kant Và Hegel Trần Văn Nam Nhận định
• Ngôn ngữ thơ là cái quái gì vậy? (Lê Hữu)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Ba Dòng Thơ Tiêu Biểu Phương Đông: Thơ Thiền Việt Nam, Đường Thi Trung Hoa Và Haiku Của Nhật (Thái Tú Hạp)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
Đàm Trung Pháp & Viên Linh dịch và chú giải:
Vịnh Hai bà Trưng (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập)
Ăn Cỗ Đầu Người (Nguyễn Biểu)
Đoạt Sáo Chương Dương Độ (Trần Quang Khải)
Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt)
......
Huỳnh Sanh Thông dịch:
Thăng Long (Nguyễn Du)
Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du)
Hồ Hoàn Kiếm (Vô Danh)
(Bà Huyện Thanh Quan)
......
Lê Đình Nhất-Lang & Nguyễn Tiến Văn dịch:
Cùng khổ (Bùi Chát)
Hoa sữa (Bùi Chát)
Bài thơ một vần (Bùi Chát)
......
Các tác giả khác dịch:
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi (Nguyễn Đình Toàn) (Do Dinh Tuan dịch)
Bữa Tiệc Hòa Bình (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Nguyễn Ngọc Bích dịch)
Từ Một Cuốn Rún (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Đinh Từ Bích Thúy dịch)
• Sau đúng 60 năm, đọc lại bài thơ trừ tịch của Đặng Đức Siêu và Đông Hồ (Trần Từ Mai )
• Mùa Thu Trong Đường Thi (Lê Đình Thông)
• Những Vần Thơ Xuân Của Vua Trần Nhân Tông (Tạ Quốc Tuấn)
• Về một bài thơ dạy học vào mùa xuân của Trần Quý Cáp (Ngô Thời Đôn)
• Cảnh Đẹp Thành Thăng Long Thời Tây Sơn Qua Thi Ca Đoàn Nguyễn Tuấn (Phạm Trọng Chánh)
Ngày Xuân Đọc "Đào Hoa Thi" của Nguyễn Trãi (Trần Uyên Thi)
Thơ Lý Bạch (Đàm Trung Pháp)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
• Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan (Viên Linh)
• Lời Cầu Nguyện Của Rừng (Bùi Bá)
• Chí Khí
• Xử Thế
• Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |