|
Dương Quảng Hàm(14.7.1898 - 19.12.1946) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
(Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu)
Á Nam Trần Tuấn Khải
(1895 - 1983)
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi;
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Trời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao xiết kể!
Trông cơ đồ nhường xé tâm can.
Ngậm ngùi đất khóc trời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sóng Long Giang nhường vật cơn sầu!
Con ơi! Càng nói càng đau …
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Ðã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây.
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái,
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong,
Giết giặc nước, trả thù chồng,
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi.
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến,
Vì giống nòi huyết chiến bao phen,
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên,
Gươm reo chính khí nước rền dư uy.
Coi lịch sử gương kia còn tỏ,
Mở dư đồ đất nọ chưa tan.
Giang san này vẫn giang san,
Mà nay xẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước,
Phải nhắc cân Gia, Quốc đôi đường,
Làm trai hồ thỉ bốn phương,
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng.
Thời thế có anh hùng là thế,
Chữ vinh hoa sá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia,
Hy sinh thân thế cũng vì nước non.
Con đương độ đầu son tuổi trẻ,
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi,
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng.
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục,
Thân tự do chiên chúc * mà vinh.
Con ơi! Nhớ đức sinh thành,
Sao cho khỏi để ô danh với đời.
Chớ lần lửa theo loài nô lệ,
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai,
Đem thân đày đọa tôi đòi,
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt,
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết,
Làm giống người phải xét nông sâu.
Tuồng chi gục mặt cúi đầu,
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh nhường ấy,
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời,
Con ơi! Con phải là người,
Thì con theo lấy những lời cha khuyên.
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm,
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu,
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ,
Mấy gian lao con chớ sai nguyền,
Tuốt gươm thề với vương thiên,
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu.
Gan tráng sĩ vững sau như trước,
Chí nam nhi lấy nước làm nhà,
Tấm thân xẻ với san hà,
Tượng đồng bia đá họa là cam công.
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch,
Mũi Long tuyền lau sạch máu tanh,
Làm cho đất rộng trời kinh,
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó, con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường.
Cha dù đất khách gởi xương,
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già.
Con ơi! Hai chữ Nước Nhà.
(*) Chiên chúc nghĩa là rau cháo (coi Tuyển tập thơ văn Á Nam, trang 20)
- Hai Chữ Nước Nhà Trần Tuấn Khải Thơ
• Ngôn ngữ thơ là cái quái gì vậy? (Lê Hữu)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Ba Dòng Thơ Tiêu Biểu Phương Đông: Thơ Thiền Việt Nam, Đường Thi Trung Hoa Và Haiku Của Nhật (Thái Tú Hạp)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
Đàm Trung Pháp & Viên Linh dịch và chú giải:
Vịnh Hai bà Trưng (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập)
Ăn Cỗ Đầu Người (Nguyễn Biểu)
Đoạt Sáo Chương Dương Độ (Trần Quang Khải)
Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt)
......
Huỳnh Sanh Thông dịch:
Thăng Long (Nguyễn Du)
Vọng Phu Thạch (Nguyễn Du)
Hồ Hoàn Kiếm (Vô Danh)
(Bà Huyện Thanh Quan)
......
Lê Đình Nhất-Lang & Nguyễn Tiến Văn dịch:
Cùng khổ (Bùi Chát)
Hoa sữa (Bùi Chát)
Bài thơ một vần (Bùi Chát)
......
Các tác giả khác dịch:
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi (Nguyễn Đình Toàn) (Do Dinh Tuan dịch)
Bữa Tiệc Hòa Bình (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Nguyễn Ngọc Bích dịch)
Từ Một Cuốn Rún (Nguyễn Thị Thanh Bình) (Đinh Từ Bích Thúy dịch)
• Sau đúng 60 năm, đọc lại bài thơ trừ tịch của Đặng Đức Siêu và Đông Hồ (Trần Từ Mai )
• Mùa Thu Trong Đường Thi (Lê Đình Thông)
• Những Vần Thơ Xuân Của Vua Trần Nhân Tông (Tạ Quốc Tuấn)
• Về một bài thơ dạy học vào mùa xuân của Trần Quý Cáp (Ngô Thời Đôn)
• Cảnh Đẹp Thành Thăng Long Thời Tây Sơn Qua Thi Ca Đoàn Nguyễn Tuấn (Phạm Trọng Chánh)
Ngày Xuân Đọc "Đào Hoa Thi" của Nguyễn Trãi (Trần Uyên Thi)
Thơ Lý Bạch (Đàm Trung Pháp)
• Trường Ca Việt Nam (Thiếu Khanh)
• Chiều Trên Phá Tam Giang (Tô Thùy Yên)
• Vài lời Cần Nói Về Ngày 30 Tháng 4 (Bùi Chí Vinh)
• Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan (Viên Linh)
• Lời Cầu Nguyện Của Rừng (Bùi Bá)
• Chí Khí
• Xử Thế
• Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |