|
Dê Húc Càn(1.10.1934 - 21.11.1987) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhạc sĩ Trần Duy Đức
1. Thịt, xương nào có trong đời kiếp âm nhạc Trần Duy Đức?
Gần đây, một số nhà ngôn ngữ học cho rằng, ngôn ngữ của một dân tộc, không chỉ làm thành sắc tố tâm tình của dân tộc ấy, (mà,) nó còn làm thành những nét đặc thù thể hiện trong lãnh vực văn học và nghệ thuật nữa.
Vẫn theo nghiên cứu của những nhà ngữ học này thì, những dân tộc có loại ngôn ngữ phải phát âm trong miệng, với những đòi hỏi của nhu cầu đánh lưỡi, hay uốn cong lưỡi, là những dân tộc phát triển mạnh mẽ về bộ môn hội họa và điêu khắc. Nói rõ hơn, hội họa hay điêu khắc không là lãnh vực chỉ dành riêng cho một thiểu số, cho những người có khả năng đặc biệt về lãnh vực đó.
Trong khi những dân tộc có loại ngôn ngữ đơn giản hơn trong cách phát âm thường dễ dàng phát triển về âm nhạc. Điều này, cũng có nghĩa, không cần phải là nhạc sĩ hay, ca sĩ, một người bình thường cũng có thể cất tiếng hát một cách dễ dàng, dù không được tập tành, đào luyện từ trường ốc.
Ghi nhận kia, có thể không đúng cho ngôn ngữ của từng dân tộc, nhưng riêng với ngôn ngữ Việt Nam, nhận định đó, nhiều phần ứng hợp.
Chẳng hạn khi nói về thơ, (dường chỉ ngôn ngữ Việt Nam mới có từ đôi: Thi-Ca,) là hát thơ hay, thơ và nhạc là một cặp, bất phân ly.
Phải chăng, vì trong thơ có sẵn nhạc nên, ngay tự thuở bình minh của nền Tân Nhạc Việt, các nhạc sĩ tân nhạc tiên phong của chúng ta, cũng đã tìm tới thơ, cho thơ hơi thở của các hợp âm trên thang nhạc thất cung Tây phương, hoặc ngũ cung Việt Nam.
Tôi luôn có liên tưởng mạnh mẽ rằng, sự kiện các nhạc sĩ đi tìm cho họ một cuộc hôn phối tốt đẹp với thơ, cũng hệt như các nhà thơ Việt Nam, chí ít, cũng một đôi lần tìm đến với thể thơ lục bát vậy.
Khác nhau chăng, rất nhiều nhạc sĩ thành công và, thành danh nhờ những cuộc hôn phối thi, ca đó. Trong khi ngược lại, rất ít nhà thơ có được cái dung nhan rạng ngời của lục bát.
Nhìn lại, người ta thấy rằng, tuồng "Ngậm Ngùi" của Huy Cận, đã mang thêm hào quang về cho Phạm Duy, khi Phạm Duy tìm tới "Ngậm Ngùi". Dương Thiệu Tước, tuồng mênh mang, bảng lảng hơn, khi ông đến với "Chiều" của Hồ Dzếnh…
Đặt biệt “Người Đi Qua Đời Tôi”, thơ Trần Dạ Từ, nhạc Phạm Đình Chương, bên cạnh những sáng tác khác của họ Phạm, giới thưởng ngoạn thêm trầm trồ, ngợi ca tài hoa của họ Phạm.
Nhưng, những nhạc sĩ vừa kể, khởi tự đầu nguồn, hay hiện diện hôm nay, tất cả đều chỉ tìm đến với thơ, như một bóng mát, một dòng suối hương thơm, trong hành trình âm nhạc của họ...
Người ở với thơ, người kiên trì, miệt mài trong nỗ lực cân bằng vế thứ hai của danh từ kép Thi-Ca trong ngôn ngữ Việt Nam, phải kể tới Trần Duy Đức.
Trần Duy Đức tìm đến với âm nhạc khi còn rất trẻ. Họ Trần đã thành công rất sớm, khi chưa được hai mươi, với những ca khúc mang tính quân hành hoặc, hùng ca…
Nhưng, khác hơn những nhạc sĩ cùng trường hợp, Trần Duy Đức không ở lại với những tựu thành này. Họ Trần muốn đi tới những chân trời mà, điểm gặp cũng là chỗ giao thoa giữa thơ và nhạc. Họ Trần muốn đi tới phần ngọn nguồn tinh ròng hay, thẳm cùng đáy sâu thử thách. Nơi những rung động cảm thức không chia hai. Chỉ là một. Sự là-một, rốt ráo của thi-ca vốn chưa từng phân, ly. Chưa từng ngăn cách.
Hôm nay, giữa quê người, ở tuổi ngoài sáu mươi, với hơn hai mươi năm ăn ở thủy chung với thi-ca, chân dung âm nhạc của họ Trần, là chân dung Thi-Ca. Diện mạo đó, không phải là diện mạo song sinh của hai giọt nước, hai cõi đời văn chương và nghệ thuật - - (Mà,) nó đã là một. Một định hình, duy nhất. Một thịt xương, trộn lẫn, duy nhất.
Chính tính bất khả phân kia, nơi đời kiếp âm nhạc mang tên Trần Duy Đức, đã làm thành một Trần Duy Đức, riêng. Rất riêng. (1)
Tiếng cổ cầm Koto nào, có trong cõi nhạc Trần Duy Đức?
Không ồn ào, không lăng xăng, không tổ chức thành nhóm, không lên tiếng, không tự mặc khoác lấy cho mình một danh xưng to lớn, rổn rảng nào... Trần Duy Đức, khép kín đời sống của anh, trong công việc, bổn phận gia đình, và một số rất giới hạn, anh em, bằng hữu. Thế giới của Trần Duy Đức, mỗi buổi chiều, trở về là căn phòng buông rèm, tối bưng hay kín mít. Ở đó, những dòng nhạc mang đầy cá tính, đầy nhân dáng Trần Duy Đức, được tấu lên, nghe lại, rồi xé bỏ hay sửa chữa. Ở đó, trong căn phòng nhỏ, kín bưng ấy, dòng nhạc Trần Duy Đức, thánh thót vang lên. Nó mang lại cho anh, một thời trẻ tuổi đã qua.
Ở đó, trong căn phòng kín bưng, nó mang lại cho kí ức chưa già nua, nhưng đã đủ muộn phiền, đủ thương đau mất mát của anh, tiếng kèn đám ma, những ngày thơ ấu. Tiếng võng ru, tiếng hò khoan trên sông. Những ngày niên thiếu và, tiếng kèn, trống vẳng đưa từ rừng sâu, lăn xuôi trên triền dốc núi, đồi, những năm tháng Pleiku, xô đẩy dịu dàng hay cuộn cuồng mãnh liệt như những tia sáng tím chạy qua những tế bào óc, ngăn cất chứa kí ức của anh.
Ở đó, trong căn phòng kín mít ấy, “Khúc Mưa Sầu”, nhạc phẩm đầu tay, họ Trần viết từ những năm thiếu thời, đã được không dưới năm nữ ca sĩ mà tên tuổi của họ, gắn liền với từng giai đoạn của đời sống, đã chọn hát, chọn làm chủ đề cho băng nhạc của họ. Những luyến láy, như những bậc cao nức nở vỡ tan, lần lần trên những nấc thang đi lên cõi hoang lạnh, được nghe lại bằng đôi tai hôm nay, đôi tai của một tài năng âm nhạc chín muồi.
"Ta về đâu?
ngày qua ngày mãi lao đao
phù du một thoáng hư hao
nằm nghe ngày rớt đêm sâu
tình ơi thân phận hồn thâu..."
Tiếng cổ cầm Koto của người Phù Tang thời dựng nước vuốt theo từng nốt nhạc Trần Duy Đức, như sóng bạc đầu trên âm hưởng quần đảo, nghìn xưa.
Nhà thơ Phạm Công Thiện, có lần kể, một đạo sĩ Mỹ, bạn anh, từ Tây Tạng trở về, gặp Trần Duy Đức, đã buột miệng tiết lộ với anh rằng tiền kiếp Trần Duy Đức vốn là đạo sĩ của dòng tu khổ hạnh ở Kyoto. Dòng tu lâu đời nhất của xứ Thần Mặt Trời, tới nay, vẫn còn trên những đỉnh núi tuyết. Lời tiết lộ có khả năng làm gợn lên những chấm gai da thịt, nhưng vẫn không mang lại một giải thích thỏa đáng nào cho những tế bào âm nhạc khua thức trái tim Trần Duy Đức.
Âm nhạc, với Trần Duy Đức, là chiếc bóng đã bầu bạn, đã ở cùng anh, những năm lên năm, lên sáu. Âm nhạc, với Trần Duy Đức, là thực phẩm vô hình nuôi anh lớn, tháp thêm cho anh đôi cánh mộng ảo, đem anh vào đời.
Âm nhạc, với Trần Duy Đức, cuối cùng là một sân chơi hiu quạnh, là một căn hầm ẩn nấp kiên cố nhất cho những cảm thức thất lạc nhân sinh, vong thân bản ngã.
Âm nhạc, như thế đó, đã đến như một người tình buồn thảm, xõa tóc đi dọc hành trình về hư không với Trần Duy Đức...
"Rồi em bỏ tôi đi trong một buổi sáng – Sàigòn đầy lá – hay em bỏ tôi đi trong một chiều nắng ăn lốm đốm da em – rừng đã thổi sương theo – ôi cuộc tình hoang mang rất vội – hoang mang rất vội – qua những miền hư hao – tôi ngồi nghe gió nổi – Khi em bỏ tôi đi – có nghe lòng trống trải – có nghe rừng gió mãi – khi em bỏ tôi đi – em bỏ tôi đi...”
Đó là nét nhạc vút cao để vỡ vụn trên đỉnh trời nát tan của Trần Duy Đức, qua tiếng hát của Lệ Thu, Khánh Ly, rồi Trần Thái Hòa. Nhạc phẩm, đã được dùng như chủ đề chính cho băng nhạc, cho tiếng hát Hải Lý, những năm giữa thập niên 80.
Đó là Trần Duy Đức, năm hai mươi tuổi. Trần Duy Đức nằm trên dốc đèo Cù Hanh, ở đáy đường Trình Minh Thế. Nhạc Trần Duy Đức buốt giá. Nhạc Trần Duy Đức mang những lát dao bén ngót, lẻm sắc, khoắng sâu tiềm thức ta, ký ức mơ hồ ta. Nhạc Trần Duy Đức, mang những ngọn đuốc, thắp sáng nỗi niềm mất mát, đọa lạc ta, ở những phần khuya lắng nhất.
Đời Mãi Ở Phương Đông
bây giờ, ta đã già và người vẫn mãi xa
như núi sớm hao gầy và giòng sông sắp cạn
bây giờ mùa mưa luôn thánh thót vườn đời ta
không cứ gì phải đúng ngày đúng tháng
và những con nước kia
còn vỗ hoài hai bên bờ tâm hồn ta sỏi đá
bây giờ đã muộn cho chúng ta
trả lại nhau tâm hồn và đời sống
khổ ải đã như rừng
ta cố công mở lối
bây giờ, ta đã già và, người vẫn mãi xa
như con thú đã bạt khỏi ngàn
chạy cuồng về phía biển
nơi những dấu chân quen
(có chút gì tội nghiệp)
đó chính là những lời hát
rớt xuống từ đôi mắt của người lãng du
trong một quay đi
không phải là trở về
bởi chúng ta chưa có một mái nhà để, xưa
ôi những móng tư thù
ngập vó đời bầm dập
ta đi qua nửa đời
vẫn hoài trông trở lại
dấu vết là môi người
vẫn còn thơm ngát mãi
và cuộc tình thiêng liêng
ủ trong tim vô nhiễm
bây giờ, ta đã già và người vẫn mãi xa
phải chăng chúa không thể ở gần
sự có mặt nhiệm màu
chỉ thực sự hiện hình nơi cõi đến
và, người giết lần ta
bằng thả trôi tình trong nín lặng
cây vàng im bóng trưa
ta cúi đầu tủi hổ
cay đắng đã như sông
cách gì ta lấp được
ôi giờ ta đã già
người đòi chi cuối kiếp
chân chưa thể bước qua
sợi dây người oan nghiệt (2)
Trái tim ta, con sông thời gian chua xót không lằn ranh. Trái tim ta, những hàng cây thương nhớ vẫn mọc. Vẫn mọc. Vẫn lớn. Ngay khi đời ta không còn nữa. Hay đời nhạc Trần Duy Đức, là một dòng sông?
Hay đời nhạc Trần Duy Đức, là những ngọn cây, vật vã trên tầng cao, gió bão?
Định mệnh nào đã tháp xương máu cho đời nhạc Trần Duy Đức?
Khổ đau nào đã thắp sáng phần thịt da ấm áp mà ngất đắm trong trái tim âm nhạc Trần Duy Đức?
Không biết. Không một ai biết. Ngay chàng. Ngay người họ Trần. Ngay nhạc sĩ. Chỉ biết. Định mệnh kia, đã là một định mệnh cộng hưởng. Định mệnh của một tiếng thơ. Một dòng nhạc. Định mệnh ở phương đông. “Đời Mãi Ở Phương Đông”. Phương đông, nơi trái tim tình yêu chân thiết lầm than ta, sẽ ở. Như giai điệu của chàng ở với “Dòng suối trăm năm”:
chẻ đôi sông núi: đêm bưng mặt - -
mưa quấn khăn vào sâu ấu thơ /.
chẻ đôi thân thế: mù tăm tích /.
ta nghĩa trang nào? chôn, cất nhau !?
chẻ đôi tâm thất: kênh, mương cạn - -
hương tóc truy tầm vai thất tung /.
tưởng ai oan khuất vừa quay gót !
xương, thịt, đời sau, máu rất buồn /.
chẻ đôi con gió: cây ly, biệt - -
tim chấn thương cùng môi tháng, năm /.
phạt ngang ký ức rừng, thao thiết - -
dòng suối trăm năm bỗng mất ngu
Du Tử Lê,
(California 10- 2003).
________
Chú thích.
(1) Trong một bài viết về Trần Duy Đức, nhà thơ Phan Tấn Hải lược ghi tiểu sử họ Trần như sau:
“…Năm 10 tuổi, Trần Duy Đức đã biết đệm đàn cho các chị trong xóm hát. Năm 16 tuổi, anh đã soạn ca khúc. Đam mê âm nhạc như thế, nhưng ở Việt Nam lại không có cơ hội học nhạc. Chỉ tới khi sang Hoa Kỳ, Trần Duy Đức mới ghi danh học các lớp sáng tác ca khúc tại các trường College. Trần Duy Đức kể rằng, cơ duyên học sáng tác nhạc đã cho anh gặp một số bạn âm nhạc. Một bạn học cùng lớp là nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan, người có nhiều bản tình ca nổi tiếng và cũng là một nhiếp ảnh gia xuất sắc. Cũng chính Hoàng Khai Nhan đã chụp các tấm ảnh để sử dụng cho bích chương của ‘Đêm Nhạc Thính Phòng Trần Duy Đức & Bằng Hữu’. Và cũng chính Hoàng Khai Nhan là người thiết kế tấm bích chương cho đêm nhạc. Trần Duy Đức đã đưa cho tôi xem các cuốn sách giáo khoa về sáng tác ca khúc, trong đó có một cuốn sách tên là ‘Music Notation’ (Văn Phạm Viết Nhạc) của Mark McGrain, trong đó, theo lời Đức, là để viết nhạc theo quy ước quốc tế, để nước nào nhìn vào bản nhạc cũng hiểu. Màu giấy đã ố vàng, mép giấy đã cong... nhưng anh vẫn giữ bên cạnh nhiều cuốn khác để nhớ một thời học nhạc. ‘Trần Duy Đức kể rằng, anh may mắn được học nhạc tại Hoa Kỳ. Trong đó có những lớp rất gay go, như mỗi lần làm bài quiz thường lệ, thầy giáo đưa ra một bài thơ ngắn, và các sinh viên phải ngay tại chỗ phổ nhạc bài thơ này – tùy theo thể nhạc mà thầy giáo yêu cầu. Thí dụ, một bài thơ về cảnh đời sống nông thôn Mỹ, thì phải phổ thành một ca khúc theo thể nhạc country music – ngay trong lớp, không cần đàn, mà phải viết ngay xuống giấy cho ra bản nhạc’…” (Trích Việt Báo, tháng 8 năm 2011)
(2) Bài thơ này tác giả viết tại thành phố Đà Lạt, năm 1972, khi cuộc chiến ở miền Nam đã lan tràn khắp nơi. Khi con số những gia đình có người chết gia tăng ở một mức độ choáng váng. Khi những người yêu nhau không biết cuộc tình và, chính bản thân họ sẽ ra về đâu sống / chết ra sao, thế nào? Bài thơ như một bài hát ru hay những lời trấn an người tình, trấn an chính mình, của tác giả – về bước đến cuối cùng của định mệnh bất hạnh. Trường hợp nào thì phương đông hay Việt Nam, vẫn là nơi chúng ta sinh ra và, cũng chọn lựa trở về, cuối chót. Bài thơ ra đời được độc giả, nhất là những người trẻ của Việt Nam thời gian đó đón nhận, như đón nhận một vành khăn tang của nỗi tuyệt vọng tới sớm, cùng lúc với nhang khói của niềm an ủi giữa sông, núi quê nhà. Nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ thành ca khúc bài thơ này, cũng trong năm 1972, khi ông đang làm “lính thú” trấn thủ Pleiku - - Khi giữa nhà thơ và nhạc sĩ hoàn toàn không biết gì về nhau, ngoài tâm cảm…”
(Trích Web site dutule.com)
Ý Kiến bạn đọc
Sỹ Duyên
Trước năm 1975 và ngay cả sau này, ngoài những sáng tác của nhóm Du Ca, rất ít ca khúc có tính cách sinh hoạt đã được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
1. Ta thường nghe “Auld Lang Syne”, dịch sang tiếng Việt là “Bài Ca Chia Tay” hoặc là “Tạm Biệt”, nhưng thường chỉ dùng vào những lúc kết thúc các buổi sinh hoạt tập thể, trại hè, văn nghệ, khiêu vũ:
“Giờ đây, anh em chúng ta, cùng nhau gĩa từ, lòng còn lưu luyến…”
Nguyên gốc nhịp 4/4 chậm rãi, trang trọng, có một chút linh thiêng trong thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới, và thường được hát tập thể.
2. Trịnh Công Sơn có bài “Để Gió Cuốn Đi”, nó như một lời tâm sự, nhắn gửi, hơi triết lý một tí.
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không ?
Để gió cuốn đi , để gió cuốn đi …”
Viết ở nhịp 3/4, tiết tấu hơi gập ghềnh khúc khuỷu, lời ca trúc trắc khó nhớ, và thường chỉ hát đơn ca. Có lẽ Hồng Nhung là người thể hiện đúng ý, vừa lòng tác gỉa nhất.
3. “Rộn Ràng Một Nỗi Đau”, thơ của Ngô Tịnh Yên, Trần Duy Đức phổ nhạc. Lời ca có vẻ chân thành, tha thiết, mời gọi. Nguyên gốc là nhịp 4/4 khoan thai nhẹ nhàng, nhưng Khánh Ly và ban nhạc đã chuyển sang điệu Swing 2/2 vui tươi, rộn rã, tin yêu, lạc quan, hợp với không khí sinh hoạt, lễ hội. Thường một người lĩnh xướng cho tập thể hát theo ở cuối một chương sinh hoạt tập thể. “RRMNĐ” với cấu trúc (AA’-B) gồm có hai lời ca cho hai lần hát.
Lời một:
(A) Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ / Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi / Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn.
(A’) Nếu co bao dung thì hãy bao dung bây giờ / Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi / Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.
(ĐK) Rộn ràng một nỗi đau / Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau / Ngậm ngùi một nỗi vui.
Lời Hai:
(A) Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ / Đừng đợi ngày mai lúc mắt tôi khép lại
Đừng đợi ngày mai có khi tôi đành xuôi tay / Trôi giạt về đâu, chốn nào tựa nuơng.
(A’) Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ / Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi thành mây khói / Cát bụi làm sao mà biết mỉm cười.
(ĐK) Rộn ràng một nỗi đau / Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau / Ngậm ngùi một nỗi vui.
Do cấu trúc thật đơn giản, lời ca lại mộc mạc chân tình, mau thuộc dễ nhớ, nên ca khúc vừa ra mắt đã được quần chúng yêu thương đón nhận ngay. Nó được phổ biến cả ở hải ngoại lẫn trong nước một cách nhanh chóng, tức thì.
Bây giờ thì sức phổ biến của “RRMNĐ” hầu như đã lan rộng ra cả nước. Nhất là sau đợt Khánh Ly về nước gặp gỡ khán gỉa Hà Nội vào tháng 5 năm 2014 vừa qua. Cô đã dùng bài “RRMNĐ” để chia tay khán gỉa, giống như cô đã thường xuyên dùng “RRMNĐ” cho bất cứ một chương trình sinh hoạt nào tại hải ngọại lâu nay.
Kết:
Khi nhiều người chỉ nhắc đến, hoặc chọn hát bài “Duyên Thề” thì NS Thanh Trang đã không được vui cho lắm, ông bảo ông còn khá nhiều bài hay khác chứ đâu phải chỉ có một DT.
NS Trần Duy Đức chắc cũng không ngoại lệ, khi đa số quần chúng cũng chỉ biết duy nhất “Nếu Có Yêu Tôi…” đang khi các bài nhạc phổ từ thơ của DTL đều khá thành công, và được nhiều ca sĩ tên tuổi trình bày.
Và còn nhiều nhạc sĩ khác, chắc cũng khá bất ngờ với ca khúc tưởng là tầm thường, đơn giản của mình lại được quần chúng yêu thương đón nhận như vậy.
Có lẽ sự lựa chọn trên thuộc về con tim, hơn là thuộc về lý lẽ?
Kính chúc BBT/DTL và quí độc gỉa nhiều sức khỏe, bình an.
(Sỹ Duyên)
- Những nẻo đường văn chương, hội họa... quyết liệt của Võ Công Liêm Du Tử Lê Nhận định
- Nguyễn Vũ và, một ca khúc trở thành kinh-nguyện-riêng Du Tử Lê Nhận định
- Trần Hoài Thư, Ngọn Cờ Đầu: Nổ Lực Xiển Dương 20 Năm Văn Chương Miền Nam Du Tử Lê Nhận định
- Nhà văn Tuấn Huy Du Tử Lê Nhận định
- Phỏng Vấn Nhà Văn Nguyễn Tường Thiết Du Tử Lê Phỏng vấn
- Họa Sĩ Phạm Tăng Du Tử Lê Nhận định
- Những Mảng Tối Cuối Đời nhạc Sĩ Tài Hoa Thanh Bình! Du Tử Lê Nhận định
- Lộ trình thơ, nhạc Trần Duy Đức Du Tử Lê Nhận định
- Nhà văn Nguyễn Viện, sống, như một mũi tên Du Tử Lê Nhận định
- Lê Lạc Giao - Tính điềm tĩnh trong cõi-giới truyện ngắn Du Tử Lê Nhận định
• Làm sao nói hết niềm riêng: Có những niềm riêng (Lê Tín Hương) (Lê Trung Ngân)
• Nhạc Nhái và Nhạc Chế (Song Thao)
• Đêm Sài Gòn Xưa (Huyền Chiêu)
• Ảo giác Trịnh Công Sơn (Lê Hữu)
• Nguyễn Đình Nghĩa - Bắt Đầu... Từ Một Đêm Trăng (Phan Nhật Nam)
• Theo Hoàng Thi Thơ, đi tìm lại đường xưa lối cũ (Cao Vị Khanh)
• Nhạc sĩ Vinh Sử kể tình đời qua những khúc bolero (Hoàng-Dung)
• Nhạc sĩ Hoài Nam và ca khúc “9 Tháng Quân Trường”: Gắn trên vai chiếc lon Chuẩn-úy… (Đông Kha)
• Nhạc vàng boléro, sến hay không sến? (Lê Hữu)
• Tô Vũ: Em đến thăm anh một chiều mưa (Hà Đình Nguyên)
Các nhóm nhạc (Wikipedia):
Myosotis, Tricéa, Tổng Hội Sinh Viên, Đồng Vọng
Nhạc sĩ:
Trang nhà:
Nhạc tuyển::
Dòng nhạc gợi nhớ Taberd75.com
Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt Ngọc Lan
Mùa thu Paris Thái Thanh
Lòng Mẹ (Y Vân) Lê Tấn Quốc, Saxo
Hận Đồ Bàn (Xuân Tiên) Chế Linh
- Hình Ảnh Ca Nhạc Sĩ Sài Gòn trước 1975
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |