16-11-2012 | VĂN HỌC

Sao Lại Thế Được

  VŨ HOÀNG CHƯƠNG


    Nhà văn Phan Khôi

Cách đây hai mươi năm,* ngay khi bước vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của những người cầm bút, tôi đã nghe đại danh ông tú Phan Khôi, như sấm dậy vang tai. Nhưng phải đến năm Bính Tuất (1946), tôi mới có dịp cùng tiên sinh hạnh ngộ. Buổi nhất kiến thật đã như định trước bởi duyên trời.


Hôm đó, tiết cuối thu... Cái lạnh của miền Bắc đã thấm vào lòng một gã ưa thú họp bạn ngâm văn. Chịu không nổi nữa tôi bèn lấy một chuyến xe lửa mà "giang hồ vặt" từ Nam Định lên Hà Nội. Cho dược tự cởi mở tuềnh toang theo đà cuồng hứng. Cho được sống hẳn vào nhịp sống vừa tao nhã vừa sôi nổi của đất ngàn năm văn vật, của hồ Trúc sông Hồng.


Bước xuống ga hàng cỏ, tôi về trụ sở ban kịch Đông Phương. Ở đấy, tôi được tin các văn hữu Kinh kỳ dang tổ chức một buổi liên hoan rộng lớn, nhân dịp chào đón một số anh em từ miền Trung miền Nam mới ra. Tôi lấy làm tiếc lắm. Vì buổi họp bắt đầu những từ năm giờ chiều. Vậy mà lúc tôi đặt chân vào vỉa hè Hàng Lọng thì Ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.


Ngồi mạn đàm với họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện nghệ thuật chưa đi hết một tuần trà, tôi đã thấy lừng lững hiện lên từ cầu thang gác cái mũi khoằm khoằm rất cá biệt của anh bạn họ Nguyễn. Dáng điệu bí mật, anh trịnh trọng tuyên bố: "Xin lỗi toàn thể ban kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ Quân đây..."

Cá bọn phá lên cười: "Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!"


Thế là tôi cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường.

- "Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! mà gặp ngay tức khắc kia! Đi chứ?"

Rồi không đợi tôi trả lời, anh vẫy luôn một chiếc xe kéo, ra lệnh cho "cọp" lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi "ngự trị" của tác giả bài "Nhớ Rừng".

Quả nhiên ông Phan đang có ý trông đợi! Cái phút nhìn mặt cầm tay đã hào hứng phi thường. Lần thứ nhất tôi cùng Phan Khôi hạnh ngộ.

Chiều hôm sau, thấy tôi ngỏ lời cáo biệt, tiên sinh trầm ngâm nửa khắc, rồi bảo: "Được, hai ta sẽ cùng đi."

Tôi cười thầm tự nhủ: "Gió đã lên!" Và, bắt chước kiểu Nguyễn "mượn tạm" tôi ở ban kịch Đông Phương, tôi cũng chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép ban kịch Thế Lữ cho "mượn tạm" ông Tú Khôi ít bửa.


Một già một trẻ, thẳng đường về bến Vị non Côi... Và, trong căn gác xép ở bờ sông, dài như cái ống, tối như cái "hũ Xuân Thu", tôi đã tiếp chuyện Phan tiên sinh hai ngày tròn với hai đêm trắng; toàn chuyện văn chương cả, mà quái thay, dứt không ra nữa thôi!

Nguyên do: Buổi liên hoan tại Hà Nội, kịch sĩ Hoàng Cầm được ban tổ chức đề cử ra ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Nam Bắc. Tình cờ trong số bốn bài ấy lại có một bài của tôi. Bài Ca Sông Dịch đó vậy! Thai nghén từ năm 1940, nó đã bị ban kịch Thế Lữ thúc đẩy bằng "đủ mọi phương tiện" để ra chào dời năm 1943, cốt mượn dùng làm khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc. Rồi chuyến này, chính nó đã khiến ông Phan Khôi "thú" tác giả và nóng lòng muốn gặp mặt ngay...

Ấy là ông bảo thế! Chứ riêng phần tác giá, thì phải hiểu rằng người ta "thú" đây là "thú" cái tinh thán hào hiệp của anh chàng giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia!

Ồ! Hiểu cách nào thì hiểu. Mặc ý tác giả! Điều ấy bất túc luận. Nhưng can hệ là cái cử chỉ kia đã nói lên những gì về >i>"con người của ông Phan Khôi"?

Thiết tưởng nó đã nói lên đủ lắm!


- Còn chưa đủ ư? Thì đây: suốt hai ngày đêm, trong cái dài dằng dặc và cái tối mò mò của "gác ống" phố Bờ Sông, Phan Khôi đã cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc bén như chém đinh chặt sắt. Ông căm thù bạo lực, ông phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu. Ông có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tàng bất khuất, cộng thêm vào cái kiến thức sâu rộng của một tay lịch lãm giang hồ. Lắm lúc ông nói như gào như quát, sang sảng lạnh người.


- "Không thế được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ! Thiếu tự do, thà ném đi! Cầm lấy một mũi nhọn khác!"

Phải chăng nào khi Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? - Không! Tôi tin rằng lòng phẫn nộ của Phan Khôi có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ "một di" trên bến Dịch.

Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy! Tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời.


Sau đó ít lâu... Khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội... và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Tôi vâng lệnh huyên đường tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đăng đẵng, hết xuân rồi lạm thu... Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu như đốt. Bỗng một hôm, tôi nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thắm buông theo giòng nước biếc, nhưng một lá thư trao theo kiểu chim xanh...

Ngoài phong bì, chỉ có hai dòng: Vũ Hoàng Chương, Nam Định. Và bên trong vỏn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi.

Thật không biết sao kể xiết được những cảm xúc của tôi lúc bấy giờ! Cảm xúc đến suýt quên rằng thư này chưa chắc tôi đã là người đầu tiên mở ra đọc. Thư rằng:


Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình

Tai mắt như không phải của mình

Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc

Nghe trong tiếng ếch một màu xanh

Suối tiên đắm đuối bao cho chán

Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành.

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.


- Ôi! Câu phá đề sao nghẹn ngào u uất đến thế? Cả một giòng máu bị thắt nút đang sôi sục phá phách đòi tự do! Rất sẵn sàng vì tự do mà "lưu huyết". Câu thừa đề mới lại mỉa mai não nuột đến đâu! Tai mắt "không phải của mình", hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào "của mình" được nữa ư?

Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt loạn rồi ư? Mà không "loạn" sao được! "Không phải của mình" kia mà! Đến như "suối tiên đắm đuối, khối mộng vờn vờn", niềm khao khát tự do quả đã tuôn tràn đè chĩu khắp trang giấy.

Ồ! hiển nhiên lắm rồi! Vì, đây là hai câu kết:


Thú ấy từ lâu không có nữa...

Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.


"Thú ấy" là thú nào? nếu không phải cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng, có khi!

Thế mà "từ lâu..." Trời hỡi! Niềm cảm xúc dâng cao. Tôi nằm dưới một túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan tiên sinh, mà cả một tâm sự đột nhiên được cởi tung mở phắt. Một tiếng xướng phải có muôn tiếng họa! Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng vui nhận lấy văn chương làm nghiệp dĩ hay sao?


Cho nên tôi đã họa nguyên vần bài thơ luật thi của Phan tiên sinh và đã gửi đi tức khắc. Tính ông Phan Khôi nóng như lửa, nếu giữa khoảng tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là tôi đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó!

Bài họa vần như sau:


Trời vô tâm quá, đất vô tình...

Biết gửi vào đâu cái "chính mình"?

Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng

Màu đen lại ngả xuống màu xanh.

Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận

Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành.

Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc!

Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh.


Thơ trao đi, lòng còn thắc mắc. Cho đến mãi giờ phút này!

Không biết hồi đó Phan tiên sinh có tiếp nhận được chăng? Mà từ đấy biệt vô âm tín...

(trong Ta Đã Làm Chi Đời Ta, cơ sở xuất bản Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn)


Vũ Hoàng Chương

(Hợp Lưu số 33, tháng 2&3, 1997)

* Vũ Hoàng Chương viết bài này khoảng thập niên 60.