26-07-2016 | VĂN HỌC

Ba Năm Làm Việc Chung Với Quang Dũng Ở Hà Nội

  XUÂN VŨ


      Quang Dũng (Xuân Vũ vẽ)

Trời xuôi đất khiến làm sao mà sau vụ đấu tố Nhân Vân Giai Phẩm tôi bị đưa về làm ở tòa soạn báo Văn Nghệ, số 54 Trần Hưng Đạo cùng chung với Quang Dũng.


Tôi không biết Quang Dũng sanh năm nào nhưng đoán chừng anh lớn hơn tôi 9-10 tuổi. Người anh ta lớn lắm. Không biết tả thế nào cho đúng, thôi thì cứ nói thế này, nếu đi mậu dịch xếp hàng mua đồ mà tôi đứng sau lưng anh thì cô mậu dịch viên không thế nào trông thấy tôi, thậm chí cái chỏm tóc tôi cô cũng không trông thấy. Hoặc hình tượng hóa cho linh dụng hơn thì cứ trông anh cởi chiếc xe đạp Trung quốc chạy ngoài đường thì rõ. Xe đạp Trung quốc to hơn xe đạp Pháp và nặng hơn bất cứ loại xe đạp nào có bán ở Hà Nội. Đặc biệt chỉ sơn đen, vè sắt, vành sắt, bánh xe Pháp 650, Đông Đức 700, còn xe Trung quốc chắc là 750. Ai mà rủi ro bắt được phiếu mua xe Trung quốc thì khóc ròng, nếu ở gác 3 mỗi ngày phải vác lên cõng xuống vài lần thì mất sức khoẻ lắm. Bọn tôi thường gọi đó là con ngựa Ô Chùy, nhưng Quang Dũng cởi nó chạy bòn bon như người lớn cởi xe con nít vậy.



     Quang Dũng (Xuân Vũ vẽ)

Thời bấy giờ ở báo Văn nghệ còn có cô bé Xuân Quỳnh (sau này bỏ chông, yêu Lưu Quang Vũ kịch tác gia. vì chồng là một anh văn công quèn). Quỳnh kêu Quang Dũng bằng bác, nhưng lại gọi tôi băng "anh", nhưng Quang Dũng chỉ cười khè khè rồi bảo nhỏ tôi: "Con bé nó để ý công tử Nam kỳ đấy!". Tôi lắc: "Cô nàng không khoái tôi đâu!". Quỳnh mới tập tểnh làm dăn bài thơ có đưa cho Quang Dũng xem để xin "bác góp ý kiến". Tôi chẳng nghe bác góp ý kiến gì và tôi cũng chẳng để ý đến thơ lẫn người.


Quang Dũng thường mặc đồ nâu sậm, nâu nhạt, không thấy anh mặc áo trắng hoặc màu gì khác. Có lễ để đỡ tốn xà bông chăng? Xà bông ở Hà Nợi phải mua phiếu chớ không dễ. Anh mang dép râu cụ Hồ chớ không mang glày. Mà hình như ở đây không có ai mang giày đi làm việc Cả. Anh còn có thói quen mang một sắc cốt bằng vải kaki bên hông như mấy ông đại cán hồi kháng chiến chống Pháp. Anh đội một chiếc nón lá kè độc nhất, cũ nhưng không rách. Vật dụng của anh dù cũ kỷ nhưng rất tươm tất, gọn gàng không xập xệ (sao cũng được như tôi).


Anh là phóng viên, biên tập viên và làm đủ thứ chuyện. Tôi cũng như anh vừa viết vừa chạy như thiên lôi, ở trên sai đâu đánh đó. Anh thích đi vùng Tây Bắc vì có lẽ anh có quen nhiều ở vùng này. Còn tôi thích di lụng vô Thanh Hóa; Nghệ Tỉnh để gập dân Nam kỳ (bí mật tổ chức trốn về Nam). Ít khi chúng tôi gập nhau lâu ngày ở tòa soạn.


Thỉnh thoảng tôi đang ngồi đọc báo hoặc viết bài thì thấy chiếc nón lá kè lú lên từ thang gác và bước chân thình thịch, anh em quay lại thì gặp ngay bộ ria mép lưa thưa hóm hỉnh của ông bạn phóng viên Tây Bắc.


Quang Dũng bao giờ cũng là con người đầy tình cảm. Đi xa về lúc nào cũng có quà cho các bạn. Trước nhất là cho cô bé thi sĩ Xuân Quỳnh một cái hoa ở đất Thái bỏ trong bao thơ, cho anh công tử Nam kỳ quả mơ quả bưởi, cho nữ sĩ Mộng Sơn một chai mật ong nguyên chất.


Ai phân bì thì Quang Dũng lại cười rung rinh hàng ria mép rất tươi:


- Vậy hứa kỳ sau. Tôi còn nhờ các cô Thác tìm giúp cho quạt và váy xòe nữa kia đấy! (Thế là mọi người yên tâm chờ).


Mà thật Quang Dũng không hứa suông. Váy các cô gái Thái rất sặc sở, màu sắc rất lạ lùng. Và những cây quạt nan trúc nữa...


Có ông giáo già người Nam Bộ từng làm trưởng ban tuyên truyền tỉnh Bến Tre, từng là thầy học cũ của tôi tập kết ra Bắc bị cho đi coi tủ sách dăm ba cuốn mốc meo, nay được cho về làm báo, ông thường trêu Quang Dũng:

- Lên đó có tắm suối không?


Mấy anh em tôi xúm lại quanh Quang Dũng náo nức chờ câu trả lời, còn mấy cô nữ sĩ thì ngoảnh mặt cười rúc rích.


Một cô bảo:

- Bác Dũng đừng nói?


Nhưng Quang Dũng cứ tự nhiên:

- Có chứ ạ?


Lên Tây Bắc mà không tắm suối thì cũng hoài! Nhưng coi... tắm thì mới thích phải không?

Quang Dũng cười hô hố như một sự chấp nhận cái chân lý của ông giáo già.


Tôi biết anh là người có nghề nên tìm cách học cũng như tôi học Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng chớ không làm bộ ta đây mà không biết quái gì hết. Quang Dũng bảo: "Cái sự viết ấy mà! Cậu cứ viết thì thành nghề. Chớ không có ai dạy ai được. Bởi vì tim ai nấy run, đầu ai nấy nghĩ" (Sau này tôi đọc Thạch Lam thấy cũng nói gần như vậy: Nghệ sĩ là thiên phú, không học mà cũng không dạy được)


Nhưng thỉnh thoảng Quang Dũng vẫn kêu tôi ra chỗ vắng hoặc ngoài đường, hoặc góc phòng bảo cho tôi những chỗ "được" của anh này, chị nọ hoặc chính của tôi. Hồi đó tôi biết quái gì đâu, kêu vô hội Nhà văn thì vô, ham viết thì viết, có biết giàn dựng cái giống gì. Nhưng nhờ học mỗi người một chữ, mỗi ngươi chỉ cho một chút mà viết.


Quang Dũng lại vẽ. Anh vẽ khổ sở lắm. Anh có dắt tôi về nhà xem tranh của anh. Ôi! nói tới cái nhà của Quang Dũng, thiệt là đau khổ. Có lẽ Quang Dũng và Kim Lân là hai nhà văn danh tiếng có cái nhà "sang trọng" nhất hội Nhà văn! Tuy vậy Quang Dũng vẫn có chỗ đề vẽ. Tôi không còn nhớ những bức tranh nho nhỏ anh vẽ trên bìa cạc-tông lượm ở đâu thì phải chớ không vẽ trên lụa trên vải bố hoặc trên giấy căn-xông cửa giới hội họa. Nghèo đến thế cơ mà. Mà lại đông con lắm thì phải. Quà sáng anh ít khi ăn, có chăng một cù mì luộc. Tôi có mời, anh (cũng như Kim Lân) lắc đầu: Mình vừa ăn xong! (Có lần Kim Lân thú thật với tôi: Thèm phở quá, lãnh lương xong ghé mậu dịch làm một tô. Xong , thấy mình "có tội" vai vợ con!) . Chế độ gì lạ vậy kia chứ! To như anh mà ăn một củ mì có khác gì cọp ăn bù mắc.


 

Ba Vì (tranh bột màu của Quang Dũng)

Quang Dũng bảo tôi: "Vẽ cảnh vật nhưng không chỉ vẽ cảnh vật mà mượn cảnh vật để tả cái tình cửa mình đối với cảnh vật!". Chao ôi! lạ lùng thế ư? Nghệ thuật cao siêu thế đó mà lâu nay tôi có biết gì!


Một hôm anh cho tôi xem mấy bài thơ (lâu quá tải không nhớ tựa). Cho xem xong anh vội cất nhanh như sợ tôi hỏi thêm gì nữa hoặc sợ tôi xin mất. Có lẽ anh không muốn nói gì thêm. Nhưng trông anh buồn lắm. Bây giờ ngồi viết những dòng này tôi cũng buồn lắm, nước mất rưng rưng đây. Mấy chục năm sau, khi sang Hoa Kỳ tị nạn CS tôi đọc thấy trên một tờ báo Việt ngữ, mới té ngữa ra. Mấy bài thơ trên báo chính là thơ cửa Quang Dũng cho tôi xem hồi trước. Rồi mới vừa đây tôi lại đọc được 2 bài thơ ấy trên báo VietNam News của Nguyên Thanh ở Georgia. Thơ Quang Dũng.


Quang Dũng đã làm thơ mà tôi không ngờ. Cũng như nhờ tờ báo này mà tôi biết được Quang Dũng là một cán bộ quân sự cấp Trung đoàn từng chỉ huy Trung đoàn Tây Tiến, đã từng sang học trường Quân sự ở Trung Hoa và đã từng chỉ huy khu Vân Nam.


Vậy mà ở tòa soạn báo Văn nghệ người ta chỉ thậm thụt vơi nhau nói về Quang Dũng như một tên phản động được đảng khoan hồng, tệ hơn nữa, bí thư của Nguyễn Tường Tam. Cách mạng vô sản làm đất nước tiêu ma, con người méo mó cả.


Tôi không biết tôi xa Quang Dũng lúc nào? Có lẽ lúc sấp bị tống vào lò bát quái Trường Son thì phải. Chừng 10 năm trước tôi đọc báo Hà Nội thấy nói Quang Dũng đau nặng không có thuốc men chi cả, không còn nói được, chỉ nằm chờ chết (1984 là thời kỳ VC còn hung tợn). Trong thành tích văn học của Quang Dũng thấy báo Văn nghệ Hà Nội có nêu lên dăm quyển sách viết cho người lớn lẫn nhi đồng của Quang Dũng được nhà nước xuất bản (ân huệ to bằng bồ).


Vậy là hết một đời nghệ sĩ tài hoa. Quang Dũng đã nằm yên dưới mộ với Đôi Mắt Ngươi Sơn Tây, với Đôi Bờ và những văn thơ bất hủ trung kháng chiến được lưu truyền ra tận hải ngoại. Rất tiếc tôi quen với Quang Dũng ít quá.


Kính dâng anh một nén hương thấp muộn của một người quen cũ của anh và xin chép lại 2 bài thơ của anh để tặng độc giả. Tôi ngậm ngùi mà nghĩ tới câu không nhớ của ai nói: "Tài năng mà làm gì dưới chế độ CS!"

Đôi Bờ


Thương nhớ ơ thờ, thương nhớ ai

Sông xa từng lớp lớp mưa dài

Mắt kia em có sầu cô quạnh

Khi chớm thu về một sớm mai


Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự

Kinh thành em có nhớ bên kia

Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến

Hiu hắt chiều sông lạnh đất Tề


Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa

Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ

Thoáng hiện em về trong đáy cốc

Nói cười như chuyện một đêm mơ


Xa lắc rồi em người mỗi ngả

Bên này đất nước nhớ thương nhau

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

Dòng lệ thơ ngây có dạt dào


Đôi Mắt Người Sơn Tây


Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì


Vừng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương

Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương


Từ độ thu về hoang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan


Mẹ tôi em có gặp đâu không?

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi cũng có thằng con bé dại

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông


Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều lưu lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Cho nhẹ lòng nhớ thương

Em mơ cùng ta nhé

Bóng ngày mai quê hương

Đường hoa khô ráo lệ


Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Lên núi Sài Sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc (*)

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng


Bao giờ tôi gặp em lần nữa

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ

Còn có bao giờ em nhớ ta.


(*) Phủ Quốc là Quốc Oai, một huyện thuộc tỉnh Sơn Tây.

Xuân Vũ

Nguồn: Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết, Tập 2)