31-01-2015 | VĂN HỌC

Những Ý Kiến Chung Quanh 20 Năm Văn Học Miền Nam

  THƯ QUÁN BẢN THẢO

Điều hợp: Nguyễn Lệ Uyên

Tham dự: Luân Hoán, Trần Doãn Nho, Trần Văn Nam, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm Văn Nhàn, Trần thị Nguyệt Mai


Tạp chí Thư Quán Bản Thảo 63, dành phần lớn số trang cho chủ đề 20 NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM, để một lần nữa, khẳng định sự đóng góp của các nhà văn nhà thơ trong giai đoạn máu lửa cùng giá trị nhân văn, tự do lẫn các khuynh hướng sáng tạo của họ trong giai đoạn đất nước lâm vào cuộc nội chiến tàn khốc nhất.


Văn học miền Nam 54-75 không hề mang tính chất độc hại của một loại sản phẩm văn hóa mà nhà cầm quyền CSVN gán cho cái nhãn nô dịch, phản động, đồi trụy. Ngược lại, nó đã làm tròn sứ mệnh của người cầm bút trước lịch sử văn học Việt Nam.


Những gì mà giới văn hóa văn nghệ miền Bắc, dưới sự chỉ huy của đảng CSVN đã và đang tiếp tục bức tử một nền văn học chói sáng ở một nửa đất nước, trong một cụm từ mang tính thóa mạ, báng bổ: “Văn học đô thị miền Nam” (?!), là điều không thể chấp nhận, đi ngược lại xu hướng phát triển đa chiều về văn hóa dân tộc của bất kỳ một quốc gia nào!


Đề cương văn hóa văn nghệ mà ông Trường Chinh chấp bút cách đây mấy chục năm chính là sự mù lòa của lãnh đạo CSVN du nhập từ một loại tư tưởng lạc hậu, rập khuôn và sắt máu gieo rắc vào đầu óc nhiều thế hệ, mang tính triệt tiêu ý thức tự do sáng tạo ở mỗi cá nhân và hơn hết biến những người cầm bút và người đọc thành một bầy cừu giữa vài con sói già xác xơ lông, thiết lập xã hội trên nền tảng một loại học thuyết mục ruỗng, lỗi thời, hoang tưởng.


Chúng tôi, những người cầm bút cùng một thế hệ, chịu nhiều thiệt thòi nhất, trong cuộc nội chiến tương tàn, đã cùng nhau nêu lên những ý kiến xoay quanh đề tài này để, một lần nữa xác quyết về tính nhân bản, tự do… trong sáng tạo, không bị bất kỳ một thế lực nào định hướng và ít nhiều đã góp phần cho dòng chảy sáng rực của văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, và đang tiếp tục nối dài bởi các nhà văn trẻ thế hệ hậu chiến, trong lẫn ngoài nước, làm cho nền văn học dân tộc rực rỡ hơn, phong cách và tư tưởng đa chiều hơn trong mỗi tác phẩm.


Sau đây là ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nghiên cứu phê bình: Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm Văn Nhàn, Trần Doãn Nho, Trần Văn Nam, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyễn Lệ Uyên xoay quanh chủ đề này. (TQBT)

Luân Hoán: Trước hết chúng ta cần khẳng định chiều dài văn học miền Nam từ đâu đến đâu, trước khi bàn sâu đến các giá trị của nó?


Trần Hoài Thư: Theo tôi nghĩ từ 1955 đến năm 1975. Gồm hai thời kỳ: Thời bình và thời chiến. Cái mốc là năm 1962, lúc chiến tranh bắt đầu thật sự bùng nổ.


Nguyễn Lệ Uyên: Văn học miền Nam là sự nối dài từ dòng văn học tiền chiến. Riêng dòng văn học miền Bắc thì bị gẫy lìa sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, nghĩa là phủ nhận toàn bộ giá trị văn học nghệ thuật trước đó, hướng theo dòng văn chương vô sản hiện thực xã hội hổ lốn, một loại văn chương mang tính rập khuôn, tuyên truyền. Duy nhất ở miền Nam, dòng văn học này được nối dài với di sản văn chương cha ông để lại, tuy không lâu để sau đó phát triển theo chiều hướng mới, khởi đi từ tạp chí Sáng Tạo. Giai đoạn từ 54 tới 75, có thể chia dòng văn học này làm 2 phân kỳ: giai đoạn 54-63 và 63-75. Ở phân kỳ trước, là sự làm mới văn học hôm nay, theo cách gọi của Mai Thảo với hàng loạt tên tuổi luôn là những đề tài cho các công trình biên khảo văn học. Phân kỳ sau, từ 63-75 là dòng văn chương của chiến tranh, thuộc về chiến tranh mà hầu hết các tác phẩm được công bố đều là các nhà văn nhà thơ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, hầu hết họ đều thuộc lớp trẻ. Tôi chia làm 2 phân kỳ và nhấn mạnh đến phân kỳ sau, như sự lưu ý về một góc nhìn khách quan hơn trong các công trình biên khảo sau này.


Nguyệt Mai: Tôi cũng có cách nhìn giống anh NLU. Theo tôi, văn học miền Nam lấy cột mốc từ 1954 -1975 là những năm đất nước bị chia cắt. Miền Bắc có nền văn học riêng của họ. Đó là nền văn học XHCN, mà tất cả các nhà văn thơ nghệ sĩ đều bị buộc phải viết một chiều: ca ngợi lãnh tụ và đảng cộng sản, tuyên truyền cho chế độ và cho cuộc chiến tranh mà họ gọi là “chống Mỹ cứu nước”. Họ không được tự do viết về thân phận, tình yêu… của riêng họ, mà người cộng sản cho đó là những “lãng mạn tiểu tư sản”. Sau vụ dập tắt “Nhân Văn Giai Phẩm”, nhà cầm quyền miền Bắc đã “trói” tay của các văn nghệ sĩ.


Hãy nghe nhà văn Võ thị Hảo viết về nhà văn Bùi Ngọc Tấn để từ đó suy luận được đời sống của các nhà văn miền Bắc:

“Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời.” Câu thơ xuất sắc này của Bùi Ngọc Tấn thể hiện nhiều điều về thân phận của một con người – một nhà văn bị buộc phải sống trong một đám đông như một con kiến trong một đàn kiến, như một con cừu cúi mặt đi trong một đàn cừu. Để thích ứng, người ta phải tự mắc bệnh nhòa, cố gắng quên bản ngã, cá tính, chính kiến của mình, để được tồn tại.

(Võ thị Hảo – Ai đã giật băng tang trên vòng hoa người chết; Nguồn: http://www.rfa.org/ – ngày 24.12.2014)

Ở miền Nam, được hưởng bầu không khí tự do, các văn nghệ sĩ được tự do sáng tạo. Họ có thể trải lòng viết bất cứ những gì họ muốn, không theo đơn đặt hàng. Nên trăm hoa đua nở. Miền Nam đã có những sáng tác về mọi thể loại: văn, thơ, âm nhạc, dịch thuật, triết học….


Nguyễn Vy Khanh: Về các giai-đoạn văn-học, chúng tôi phân chia văn học miền Nam 1954-1975 thành hai thời kỳ chính: 1954-1963 và 1964-1975. Vào giai đoạn đầu 1954-1963, một nền văn nghệ tự do sinh hoạt trong một không khí văn hóa, tin tưởng, thì đến giai đoạn sau 1964-1975, văn nghệ đa dạng hơn nhưng cũng đa tạp hơn với những người làm văn nghệ phân hóa, cả bạo động, trong một xã hội thời chiến giá trị phong hóa mất dần. Giai đoạn đầu có thể nhận ra hai thời, thời đầu 1954-1960 tự tạo niềm tin và là thời xây dựng hậu chiến và thiết lập nền chính trị cộng hòa, dân chủ, tự do; sinh hoạt văn-hóa và văn-học hồi sinh, lý thuyết cùng ảnh hưởng Âu Tây nhập dòng văn-học Việt từ miền Bắc di cư vào và dòng văn-học miền Nam bản địa (Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại đều đình bản năm 1960 hoặc 1961). Thời sau, 1961-1963, báo chí và ấn phẩm phục vụ giai đoạn đầu dần tự cập nhật lại. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 không những đóng lại nền Đệ nhất Cộng hòa mà còn thay đổi cả sinh hoạt cùng não trạng văn hóa. Giai đoạn hai của nền văn-học miền Nam, 1964 -1975, đã tiến triển qua ba thời: 1964 -1968, đa nguyên văn hóa và văn chương nở rộ, văn-học chiến tranh dần rõ nét với các nhà văn thơ trẻ, thời 1968-1972 hốt hoảng sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và cuối cùng là “Mùa Hè đỏ lửa” 1972, văn-học chiến tranh “sung mãn” một cách bi thảm theo cuộc chiến, khuynh hướng phản kháng và phản chiến ngày càng nặng nề với nguồn gốc và động cơ khác nhau. Và thời cuối 1973 -1975 với hiệp định đình chiến Paris 27-1-1973, sinh hoạt văn-học phần nào trầm hơn bên cạnh những đấu tranh chính trị.


Trần Doãn Nho: Cho đến bây giờ, khi nói VHMN tức là nói đến văn học VNCH, một chế độ xuất hiện sau hiệp định Genève chia đôi đất nước từ năm 1954 đến 1975, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Văn học miền Nam là nền văn học từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, khác với văn học Nam Bộ chỉ giới hạn ở vùng đồng bằng Nam phần. Do điều kiện chính trị, xã hội cũng như lãnh thổ, VHMN có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với văn học miền Bắc tính từ vĩ tuyến 17 trở ra Ải Nam Quan, cùng một thời kỳ.


Trần Văn Nam: Tôi xin đặt vấn đề rằng, Văn học Miền Nam giai đoạn 1963 đến 1975, giai đoạn nửa triệu quân Mỹ tham chiến trực tiếp ở Miền Nam, có phải văn chương không nổi trội bằng âm nhạc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn và vài nhạc sĩ khác? Hay vì hoàn cảnh chiến tranh ác liệt làm văn học vẫn phong phú nhưng không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác, nhất là của các nhà văn nhà thơ đồng thời là quân nhân tác-chiến hoặc đang ở xa đô-thị?


Trần Hoài Thư: Âm nhạc trội hơn bộ môn văn chương vì tiết tấu trầm bổng du dương dễ đi vào lòng người nghe. Ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ có gì văn chương đâu mà Ngày Trở Về của Phạm Duy lại được phổ biến rộng rãi.


Nhờ radio. Nhờ quán nhạc. Nhờ cây đàn. Nhờ ca sĩ. Còn văn chương thời chiến, dù phong phú cách mấy, nhưng chỉ thu hẹp trong sách vở tạp chí, và thành phần độc giả.


Thời nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy. Hai bộ môn khác nhau. Và có thể đối tượng cũng khác nhau. Một đàng dùng tai. Một đằng dùng mắt nhưng mắt cần phải biết chữ, phải có trình độ, kiến thức, hay tuổi tác…


Luân Hoán: Âm nhạc vốn là một chuyển đạt tình cảm, thông tuệ trực tiếp và hữu hiệu đến đại quần chúng, nên tôi không ngạc nhiên sự lấn lướt của bộ môn nghệ thuật này so với văn thơ… Một đôi khi âm nhạc chỉ cần nhắc lại, mở rộng ra một ý thơ đẹp, đủ được chào đón thưởng thức hơn hẳn ý thơ đó nằm im trong một thi tập. Trường hợp của Vũ Hữu Định và Linh Phương có thể so sánh khả năng phổ quát trong quần chúng giữa hai bộ môn thi nhạc như thế nào.


Lữ Quỳnh: Dù chiến tranh khốc liệt đến đâu, thì âm nhạc vẫn có ưu thế hơn văn học, cho nhạc sĩ sáng tác hơn là cho nhà văn, nhất là những nhà văn ngoài chiến trường. Người ta, dù bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn nghe dễ hơn đọc.


Đã có những người lính miền Bắc trong lúc ngồi hầm tránh bom B52 vẫn kề radio vào tai để nghe Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… cơ mà.


Anh Trần Văn Nam nói các nhà văn, nhà thơ đồng thời là quân nhân tác chiến, không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác của họ. Tôi nghĩ điều này chưa hẳn đúng (dĩ nhiên là họ không có điều kiện như những nhà văn ở thành phố rồi). Điều mà tôi thấy và cảm phục ở họ, là họ viết được trong những phút dừng quân giữa rừng, đôi khi những trang bản thảo bị nhòe nước mưa và vấy cả máu. Sáng tác của họ vẫn gửi đều về và được đăng tải trên Khởi Hành, Văn, Bách Khoa… Điều mà tôi muốn nói là có những kẻ tưởng mình là nhà văn, nhà phê bình để có quyền lên tiếng, phát biểu này nọ; thực ra họ chỉ lặp lại, dựng lên những gì đã có sẵn từ trước, không có gì gọi là khám phá, mới lạ cả.


Nguyễn Lệ Uyên: Tôi cũng có ý như Lữ Quỳnh, chưa thật tán đồng cách đặt vấn đề của anh Trần Văn Nam, bởi âm nhạc, hội họa có tiếng nói riêng, đời sống riêng của nó… khác với thơ văn về phương diện truyền tải đến người thưởng ngoạn. Đã đành nhờ âm nhạc, thơ được vang xa hơn (phổ thơ), nhưng không phải vì vậy mà thơ tự nó mất đi giá trị nội hàm. Những bài thơ không được phổ nhạc như Chiến tranh VN và tôi của Nguyễn Bắc Sơn hay Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư ai dám khẳng định là nổi trội hay không nổi trội bằng những ca khúc của Ngô Thụy Miên, Phạm Duy, Phạm Đình Chương?


Văn học ở giai đoạn máu lửa này, từ các nhà văn nhà thơ trẻ, tác phẩm của họ được công bố rộng rãi từ nhật báo, đến tuần san chuyên biệt, đến các tạp chí văn chương… Đó, thơ của Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Lâm Hảo Dũng, Trần Kiêu Bạt, Lâm Chương, … hay văn của Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Kinh Dương Vương, Lương Thái Sỹ, Lê Văn Thiện… vẫn đều đặn xuất hiện trên báo chí và lập tức tạo sự chú ý cho độc giả, mọi thành phần. Những người lính là nhà văn, nhà thơ khi viết, họ viết về những gì họ sống với, chứng kiến… Họ viết lúc dừng quân, viết trong hầm, viết khi nghỉ chân trên đường hành quân. Sống và chết trong gang tấc, viết được và hay đã là điều kỳ diệu và khi tác phẩm của họ được đưa lên mặt báo đã là sự kỳ diệu lớn hơn. Bởi nó đã đánh động vào tâm não của độc giả, của xã hội thậm chí cả chính quyền, phần nào cảm thông được thân phận lớp trẻ thời ấy, hiểu được nỗi hẩm hiu, số phận của dân tộc nhỏ bé, hứng lấy những tai họa từ những sắp đặt của kẻ lớn.


Trần Doãn Nho: Âm nhạc là âm nhạc, văn chương là văn chương, cũng như hội họa là hội họa, đó là những hình thái nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Âm nhạc, chủ yếu là hát và nghe; văn chương chủ yếu là viết và đọc. Mỗi hình thái nghệ thuật có một ảnh hưởng nhất định nào đó trên quần chúng. Âm nhạc chủ yếu nhắm đến cảm tính, ảnh hưởng của nó đôi khi ta có thể nhìn thấy ngay, cho nên nó “nổi trội”; văn chương chủ yếu nhắm đến tri thức, nhận thức và kiến thức, ảnh hưởng của nó tiềm ẩn, không thấy ngay, nhưng có tác động lâu dài về sau. Quần chúng của âm nhạc rộng và dễ dãi hơn độc giả của văn chương. Tuy nhiên, theo tôi, nhạc Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, sở dĩ nổi trội hơn tất cả các nhạc sĩ khác vì lời nhạc của hai tác giả này có tính chất văn chương. Ưu thế của họ, nếu có, xuất phát từ đặc điểm này.


Trần Văn Nam: Tôi nghĩ rằng, như đã xác nhận hàm chứa trong câu hỏi, vì tôi cũng đã có viết về điều này trong bài “Các Thời Kỳ Văn Học Miền Nam Từ 1963 Đến 1975”. Nay tôi có dịp bổ túc những điều được biết như sau: Qua những ý kiến của nhà văn Trần Hoài Thư, ta mới nhận ra sáng tác văn thơ về chiến tranh của nhiều tác giả (quân nhân hoặc dân sự) đã có hiện diện thật nhiều trong các tạp chí Văn, Khởi HànhBách Khoa thời gian ấy, đa phần là những mô tả hiện thực trong khói lửa. Vì điều kiện thời tao loạn, các tác phẩm truyện ngắn hiện thực chiến tranh của họ chưa được xuất bản thành sách, chưa được các nhà phê bình lưu tâm, nên phải nằm trong âm thầm. Một phần nào nay được lưu giữ trong 4 bộ sách “Văn Miền Nam” và 2 bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến” của nhà xuất bản Thư Ấn Quán. (Và cũng có hiện diện trong vài bộ sách văn học xuất bản tại hải ngoại mà tôi không nhớ hết). Nhân đây, thêm một câu hỏi của tôi và cũng xin tự trả lời nhằm mục đích ghi nhận một sự kiện văn học: Tại sao có ít nhóm văn chương ở giai-đoạn 1963-1975 hơn là ở giai-đoạn 1954-1963 trong Văn Học Miền Nam (thời Việt Nam Cộng Hòa)? Câu hỏi xem chừng dễ trả lời: Sở dĩ có nhiều nhóm quy tụ bạn văn chương vì thời Đệ Nhất Cộng Hòa là thời chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, chưa ở vào giai đoạn nửa triệu quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Tình hình tương đối an ninh trên toàn thể lãnh thổ Miền Nam. Giới văn chương quy tụ ở Sài Gòn, hoặc ở các thành phố. Họ không bị phân tán khắp nơi như thời chiến tranh cao điểm: mỗi người theo nhu cầu chiến sự phải công tác ở một nơi nào đó theo chuyên môn nghiệp vụ. Được quây quần nhờ điều kiện yên ổn trong thành phố, họ dễ liên lạc nhau để tổ chức hội thảo hoặc nhắn nhủ đóng góp kịp thời bài sáng tác cho tạp-chí văn chương nào đó, nhờ thế tạo nên điều kiện hình thành nhóm. Câu hỏi và tự hồi đáp này mong được coi như một ghi nhận sự kiện thời Văn học Miền Nam. Nhân sự trong nhóm kể ra ở đây chắc không đầy đủ hoặc không đúng, mong được bổ túc và sửa sai từ giới làm văn có nhiều thân cận và hiểu biết. Những nhóm văn chương giai đoạn 1954-1963 gồm có: Nhóm Sáng tạo (Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền) – Nhóm Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca) – Nhóm Hành Trình (Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Thảo Trường) – Nhóm Quan Điểm (Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng) – Nhóm Phổ Thông (Nguyễn Vỹ, Tôn Nữ Hỷ Khương, Lâm Vị Thủy, Tuệ Mai) – Nhóm Tao Đàn (Đinh Hùng, Tô Kiều Ngân) – Nhóm Tinh Việt Văn Đoàn (các nhà văn và học giả Công Giáo) – Nhóm Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Quách Thoại) – Nhóm Nhân Loại (Anh Đào, Tam Ích, Sơn Nam) – Nhóm Mùa Lúa Mới (Võ Phiến, Đỗ Tốn)… Qua giai đoạn 1963-1975, các nhóm văn chương trở nên ít hơn, nhường chỗ cho các tạp chí quy tụ rộng rãi các nhà văn thơ từ khắp nơi và không phân biệt khuynh hướng, như Tạp chí Bách Khoa, Tạp chí Văn, Tạp chí Thế Kỷ 20, Tạp chí Thời Tập; Tuần báo văn chương Khởi Hành, Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ. Đây là thời chiến tranh khốc liệt, các truyện ngắn và thơ hiện thực chiến tranh sáng tác từ những nơi khói lửa và xa đô thị có được những diễn đàn để bày tỏ cảm nghĩ. Chỉ có ít nhóm văn chương thời kỳ này, như nhóm Trình Bầy (Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Diễm Châu); và vài nhóm cách xa Sài Gòn như nhóm Khai Phá ở Châu Đốc (Ngô Nguyên Nghiễm, Lâm Hảo Dũng), nhóm Ý Thức ở Miền Trung (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh).


Nguyễn Lệ Uyên: Tôi nghĩ, giai đoạn 63-75, chiến tranh bắt đầu lên tới cao trào, khốc liệt. Các nhà văn trẻ, hầu hết đều ở ngoài mặt trận, và tác phẩm của họ thường trên các tạp chí văn chương Sài Gòn. Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, phần nào giới hạn sự phát triển của các nhóm văn nghệ mang màu sắc, tiếng nói riêng biệt, nhưng điều này không có nghĩa rằng các nhà văn trẻ chỉ chịu lệ thuộc vào các tạp chí văn học lớn ở thủ đô. Trong chừng mực nào đó, họ vẫn cố gắng qui tụ những gương mặt có cùng một hoài bão, cùng một khuynh hướng sáng tác trên một tờ báo do anh em trong nhóm chủ trương. Có thể kể ra đây:


– Huế có tờ Việt, tờ báo vận động văn học nghệ thuật về nguồn, dưới hình thức in ronéo do Nguyễn Văn Ban, Tần Hoài Dạ Vũ, Kiều Trung Phương coi sóc.


– Quảng Nam, Quảng Ngãi có tờ Trước Mặt do Luân Hoán, Thành Tôn, Phan Nhự Thức… chủ trương, bên cạnh còn có thêm Ngưỡng Cửa cũng của nhóm này.


– Qui Nhơn có Nhìn Mặt do Trần Hoài Thư, Đặng Hòa chủ trương. Ngay đến một thị trấn nhỏ như An Nhơn Bình Định cũng có tờ Vỡ Đất.


– Tuy Hòa có tạp chí Sóng do Hoàng Đình Huy Quan, Nguyễn Phương Loan, Nguyễn Lệ Uyên, Phạm Cao Hoàng, qui tụ nhiều cây bút thành danh sau này, như Y Uyên, Cung Tích Biền, Lôi Tam, Đỗ Tiến Đức, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Thành Tôn, Hoàng Ngọc Châu, Tần Vy, Võ Hồng, Từ Thế Mộng… Mấy năm sau, Trần Huiền Ân, Phan Việt Thủy, Mang Viên Long cho ra mắt Hiện Diện.


– Nha Trang thì có Dựng Đất của nhóm Nguyễn Âu Hồng, Lê Minh, qui tụ nhiều cây bút tên tuổi: Võ Hồng, Dương Kiền, Thạch Trung Gỉa, Duy Năng, Chu Trầm Nguyên Minh…


– Phan Rang có Ý Thức, tờ báo in ronéo đẹp nhất miền Nam của nhóm Nguyên Minh, Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương, Ngy Hữu…


– Miền Tây có tờ Khai Phá của nhóm Ngô Nguyên Nghiễm, Lưu Nhữ Thụy, Lâm Chương, Hà Nghiêu Bích… Và còn nhiều nhóm khác nữa…


Những liệt kê trên, cho thấy rằng, không phải các nhà văn trẻ thiếu ý hướng lập ra những nhóm riêng lẻ, mang các khuynh hướng khác nhau, từ văn học nghệ thuật đích thực đến tình tự dân tộc, đến về nguồn… Tuy nhiên, như đã phân tích, chiến tranh cuốn hút tất cả mà hệ quả là lực bất tòng tâm, khác hơn, vấn đề tài chính và chiến tranh là hai yếu tố nhấn chìm mọi tham vọng, ước mơ của những cây bút trẻ mong có được một nhóm như trước đó thế hệ đàn anh đã từng. Duy nhất chỉ có Ý Thức là vẫn duy trì cho đến ngày nay, đổi tên Ý Thức ra Quán Văn. Điều này cũng khẳng định rằng, chỉ có miền Nam mới có tự do sáng tác, tự do đưa ra mọi khuynh hướng, chính kiến vào tác phẩm văn chương.


Phạm Văn Nhàn: Như tôi đã từng nói, văn học miền Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975 là một nền văn học đích thực. Tại sao gọi là một nền văn học đích thực; vì nó không mị dân, không tuyên truyền cho một chế độ. Người cầm bút có quyền viết bày tỏ sự suy nghĩ, sáng tạo, hay dựng truyện tùy theo cảm nghĩ của mình. Không lệ thuộc vào một tổ chức chính trị nào. Không ảnh hưởng đến một ai cả, đứng đằng sau chỉ đạo. Và còn nữa, chỉ có Văn Học Miền Nam mới phát huy hết được tính sáng tạo trong văn, thơ của từng tác giả.


Tuy nhiên trong 20 năm văn học Miền Nam cũng có loại văn thơ dùng cho tuyên truyền, tâm lý chiến của chế độ. Nhưng, thường những thể loại này (văn, thơ, nhạc, hội họa) đều là dở. Ít ai đọc và không đi vào lòng người.


Trần Hoài Thư: Một điểm chung mà văn học miền Nam cống hiến là tình thân như ruột thịt giữa những người cầm bút trẻ trong thời chiến, dù người này có khuynh hướng thiên Cộng, viết cho Đối Diện, dù người kia trốn lính hay đào ngũ, dù kẻ nọ chống Cộng cực đoan… Ví dụ Thái Ngọc San chửi THT là lính đánh thuê, nhưng khi TNS đào ngũ bị bắt, tôi và Phạm Văn Nhàn vẫn đến trại trưng binh ở Ghềnh Ráng để thăm nuôi… Hoặc dù không bao giờ thấy mặt nhau nhưng ngỡ như thân lắm…


Tại sao vậy? Văn học miền Bắc có chuyện này không?


Riêng tôi (THT), một điểm phải ghi nhận là chính những tạp chí văn học như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Ý Thức v.v… đã giúp chúng tôi gần gũi nhau hơn bao giờ. Chúng tôi cùng đọc và cùng viết. Dù chưa một lần gặp mặt nhưng tên bút hiệu thì xem như thân nhau lắm.


Trong hoàn cảnh của chiến tranh, đưa đẩy mỗi người một phương trời, chính các tạp chí ấy là gia đình.


Đặc tính này còn tìm thấy trong hàng ngũ chung của người cầm bút ở miền Nam. Một ví dụ là việc can thiệp của giới viết văn/làm báo tại Saigon đòi chánh quyền phải thả Vũ Hạnh, dù ai cũng biết Vũ Hạnh là một thành phần nguy hiểm…


Còn những nhà văn nhà thơ miền Bắc ra sao? Tôi nghĩ tội nghiệp cho họ. Họ không có độc giả, hay bạn bè. Bởi vì, họ đâu có viết cho họ để mà có cái thân tình như tác giả miền Nam. Họ viết cho đảng, cho giai cấp, cho mục tiêu tối hậu là xâm chiếm miền Nam mà.


Luân Hoán: Điều anh Trần Hoài Thư nêu ra gần như là một xác nhận rõ nét tính chất nhân bản của hai bên đối đầu của hai chế độ. Điều này không phải lỗi của văn nghệ sĩ miền Bắc chỉ bởi hoàn cảnh thiếu tự do của họ. Tài hoa và lòng nhân ái của những cây bút miền Bắc có thừa. Và sự có thừa này ngày nay có thể vì ít nhiều tự ái và bảo thủ về đường hướng phục vụ lâu năm, mà họ chưa thể có những tác phẩm lớn hơn cho đại quần chúng.


Trần Văn Nam: Thời chiến 1954-1975, không những hai phe khác quan điểm đã đả kích nhau trong chữ nghĩa mà còn khác chiến tuyến với súng đạn, thì cách đối xử lịch sự chỉ là những trường hợp cá nhân do biết nhau qua văn thơ, trong đó có thể hàm chứa sự tán thưởng về nghệ thuật sáng tác. Tấm lòng của ông (Trần Hoài Thư) đối với văn-hữu tử trận, đối với thi-tài một thời bị lãng quên, đối với dịch giả dành trọn tuổi trẻ chuyển-ngữ những tác phẩm lừng danh thế giới… đã thể hiện cụ thể trong những số tạp chí in-ấn thủ-công do ông cố gắng làm ra để tưởng niệm họ. “Văn Học Miền Nam 1954-1975” gắn bó với công-trình “Di Sản Văn Chương Miền Nam” do ông thực hiện.


Nguyễn Lệ Uyên: Với những người viết trẻ (cách gọi của cố nhà văn Trần Phong Giao), họ có sự đồng cảm về thân phận của những thanh niên trong hoàn cảnh tàn khốc nhất của chiến tranh. Mới vừa là học sinh cuối bậc trung học, sinh viên chưa ngồi ấm ghế giảng đường, đã vội vã lên đường cầm súng. Sự sống và cái chết luôn treo lơ lửng trên đầu họ. Vì vậy, đối với họ, viết là sự bày tỏ, là thái độ đồng thời cũng là trách nhiệm với chính những dòng chữ mình viết ra trước độc giả, xã hội. Họ có cùng một tâm trạng, suy nghĩ tuy lối sống có khác nhau, cách nhìn, cảm nhận khác nhau… đã là một sợi dây nối kết với nhau.


Một cái tát của LC dành cho Thái Ngọc San ở tòa soạn Ý Thức, hay một câu “chửi” của San với Thư hay anh em khác, không phải phát xuất từ những hằn học đã được định vị từ một thái độ chính trị, mà trong tâm thế đang bị lôi kéo, bị rỉ tai cộng với nhận thức hời hợt của tuổi trẻ, như Milovan Djilas từng viết trong Giai cấp mới rằng: “20 tuổi mà không đến với chủ nghĩa cộng sản là người không có trái tim; 40 tuổi mà không từ bỏ chủ nghĩa cộng sản là người không có cái đầu”! Tôi nghĩ thái độ của San chỉ là ý thức phản kháng hèn đớn và nhất thời.


Nên nhớ rằng lúc đó chúng ta chỉ đang ở ngưỡng “Nói với tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh. Một lớp trẻ bơ vơ vừa bị ném ra mặt trận! Tôi coi khinh Cộng Sản nhưng khi thấy Thái Ngọc San co ro trong tòa soạn Ý Thức giữa trưa không còn bóng người, tự dưng tôi cảm thấy chạnh lòng…


Ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn, bên cạnh Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nguyễn văn Bông… thì có Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Lê Văn Ngăn, Thái Ngọc San; có Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy bên cạnh Lê Khắc Minh Nhựt, Đoàn Văn Toại… Một bên văn chương gắn liền với chính trị, nói khác là chính trị hóa văn chương bên kia là tự do hoàn toàn. Không ai không biết họ là những người cộng sản nằm vùng, sử dụng văn học và báo chí như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho những mưu đồ. Ở miền Nam, nhà văn chân chính chỉ có trách nhiệm với ngòi bút và độc giả. Chính trị đã có chính quyền và luật pháp. Thật rạch ròi.


Vì vậy, cho nên trong cùng một thế hệ, dù cho sự chọn lựa thái độ và cách hành xử và hành ngôn của mỗi người có khác nhau, nhưng trên văn đàn họ vẫn ngồi đứng trong cùng một con tàu văn học, và tạo cho dòng văn học miền Nam đa dạng đa chiều hơn.


Điều này càng không thể so sánh với lớp trẻ miền Bắc bị bắt buộc viết theo sự chỉ đạo một chiều. Rồi bởi khi họ lên đường, họ ra đi là một đi không trở lại? Nhưng tôi vẫn tin tình người vẫn có nơi họ, trừ phi họ là những “ông chính ủy”!


Nguyễn Lệ Uyên: Tôi nghĩ, một lần nữa, chúng ta nên khẳng định giá trị nhân văn, tự do trong các tác phẩm văn học ở giai đoạn này?


Trần Hoài Thư: Giá trị nhân văn và tự do thì 100% trong ý niệm, suy nghĩ, đường lối, khuynh hướng của người viết, nhưng khi nói đến tác phẩm thì tự do chỉ là tương đối. Chỉ có chăng là giá trị nhân văn bao trùm cả nền văn học miền Nam.


Bởi vì, muốn có tác phẩm ra đời thì phải xin kiểm duyệt. Mà một khi được cán bộ ghé mắt, với lưỡi dao, cái đục bên mình thì còn gì là tự do?


Tôi nghĩ, trong cuộc chiến vừa qua, có nhiều tác phẩm bị cấm xuất bản. Riêng bản thân tôi mỗi lần gởi bài, phải tìm đúng báo mà gởi. Những bài có vẻ “nhạy cảm” thì gởi cho tuần báo Khởi Hành là chắc ăn.


Tôi nghĩ chúng ta phải cám ơn tuần báo Khởi Hành. Nếu không có KH thì chắc chúng ta sẽ không bao giờ đọc được “Chiến Tranh VN và tôi” của Nguyễn Bắc Sơn.


Và cũng phải cám ơn Sở Kiểm Duyệt Vùng Bốn tại Cần Thơ, nếu không có nơi này thì chắc gì những thi phẩm của Nguyễn Bắc Sơn, hay của Linh Phương (Kỷ vật cho em) được giấy phép xuất bản, trong khi ở Saigon, chúng bị loại.


Tôi có một tác phẩm bị loại bởi Saigon vì nó viết về thời kháng chiến chống Tây. Đó là truyện vừa “Rặng núi ở bên kia sông” dựa vào chất liệu của gia đình tôi. Tiếc là bản thảo truyện đã bị thất lạc. Phải chi mà tôi biết sự dễ dãi của Sở Kiểm duyệt vùng bốn, thì tôi có một tác phẩm truyện dài đầu tay mà tôi rất ưng ý rồi.


Thật nực cười, trong khi các tác giả ngoài Bắc đang hì hục nặn óc đào trí để kích động thế hệ trẻ ngoài Bắc vào Nam giết “Mỹ Ngụy”, lại được ghi vào trong chương trình học ở miền Nam, thì một tác phẩm chỉ viết về một thời kháng Pháp, lại bị cấm.


Như vậy, giá trị của văn học miền Nam là nhân bản: đúng, nhưng tự do thì chỉ ở ngòi bút chứ không phải ở tác phẩm.


Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên bao hàm trong đề-nghị hồi đáp những “Giá Trị Văn Chương Về Mọi Mặt” của 20 năm Văn Học Miền Nam như thế nào? Đây là một đề nghị hồi đáp rất bao quát cả hai giai đoạn 1954-1963 và 1963-1975, không dễ nói hết trong đôi dòng cho mọi mặt gồm Thơ, Truyện Ngắn, Tiểu Thuyết, Kịch Bản, Biên Khảo… Vậy, tôi có đôi điều cố gắng vắn tắt thuộc về Sáng Tác mà thôi: trong giai đoạn Đệ Nhất Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam) thì nổi bật ở sáng tạo Hình Thức Văn Chương và Nội Dung thì nghiêng về Triết Lý. Về thơ có Thơ Tự Do, Thơ Tình Từ Ngữ Hiện Đại, Thơ Lục Bát Từ Ngữ Tân Kỳ, Thơ đề cập Siêu Hình hoặc Dục Tính. Truyện Ngắn và Tiểu Thuyết cũng nghiêng về Triết Lý Hiện Sinh. Hình Thức trong văn xuôi có lẽ chỉ có nhà văn Mai Thảo ở thể Truyện Ngắn. Kịch bản chỉ ở nhóm Quan Điểm với Vũ Khắc Khoan và Nghiêm Xuân Hồng. Kịch Nói chắc thuộc về Nghệ Thuật Trình Diễn Sân Khấu hơn là Văn Chương. Giai đoạn văn học này (1954-1963) được bàn đến nhiều. Giai đoạn Đệ Nhị Cộng Hòa 1963-1975, thời chiến tranh ác liệt: Truyện Ngắn và Thơ lưu dấu nhiều về cuộc chiến, Hiện Thực hoặc Cầu Nguyện Hòa Bình. Giai đoạn này có lẽ còn là một kho văn chương chưa khám phá hết.


Nguyệt Mai: Văn học miền Nam, như đã nói trên là một nền văn học nhân văn, tự do… Các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ có tự do sáng tạo. Văn chương nghệ thuật miền Nam không bị “mặc” bộ đồng phục. Văn chương nghệ thuật thể hiện tinh thần yêu đời, yêu người,.. không nhất thiết phải yêu lãnh tụ hay người cùng chung chí hướng.


Như nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương đã viết:

Người lính miền Nam đi đánh giặc

Ba lô mang theo hồn thơ văn

(Người lính làm thơ trên đỉnh núi – Nguyễn Phúc Sông Hương)

Họ không mang lòng hận thù, như nhà thơ Phan Xuân Sinh đã viết và ông còn bày cuộc rượu uống cùng người lính phương Bắc:

“những thằng lính thời nay không mang thù hận

bạn hay thù chẳng có một lằn ranh

thôi hãy uống, mọi chuyện bỏ lại sau

nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu

bày làm chi trò chơi xương máu

để đôi bên nuôi mầm mống hận thù

ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu

chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc”

(Uống rượu cùng người lính phương Bắc – Phan Xuân Sinh)

trong khi nhà thơ Linh Phương đã tha chết cho một nữ du kích bên kia chiến tuyến:

Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng

Xinh đẹp như con gái Sài Gòn

Ta nổi máu giang hồ hảo hán

Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân

(Hành quân – Linh Phương)

Chúng ta sẽ mỏi mắt mà không bao giờ gặp những vần thơ như thế của miền Bắc.


Có chăng là:


Máu kêu máu trả thù.

Súng đâu, anh em đâu.

Bắn nó thủng yết hầu,

Bắn tỉa nó dài lâu!

(Xuân Diệu)


Về văn, ta có thể gặp trong Buổi Dừng Quân của Lê Bá Lăng hoặc những truyện ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư (trong Truyện từ Văn – Thư Ấn Quán tái bản 2012) như Bệnh xá cuối năm, Về Thành, v.v…


Nguyễn Vy Khanh: Ngoài đặc tính nhân bản mà quí anh chị đã trình bày, nhân bản của con người hôm nay, ở đây với những vấn nạn, thân phận thực hữu, văn-học miền Nam còn mang thêm tinh thần khai phóng và đa nguyên. Mở cửa tiếp nhận (và gạn lọc) các khuynh hướng văn-học Âu Mỹ cả Nga, Đông Âu, Mỹ latinh, Nhật, v.v…, góp phần đa dạng hóa văn-học, tức không minh họa, một chiều như “văn-học” miền Bắc CS cùng thời. Khai phóng còn ở tinh thần làm văn-học, ở sáng tác, ở thái độ và chủ trương khám phá tài năng trẻ, mới. Nhờ vậy mà văn-học miền Nam có nhiều tiếng nói, già trẻ, địa phương, “chiếu” lớn, “chiếu” nhỏ, thiên hữu cạnh thiên tả, “hôm nay” cạnh “dân tộc”, v.v… và có những khuynh hướng tâm linh, tôn giáo, triết lý cùng tham gia trường văn trận bút. Văn-học miền Nam với những đặc điểm nhân bản, khai phóng, đa dạng, bên cạnh tinh thần dân-chủ, tự do, đã là môi trường thuận lợi cho việc phát triển tài năng văn-chương, và đã có những tài năng thật sự, những tác-phẩm lớn. Dĩ nhiên chiến-tranh và văn-hóa tính của con người Việt-Nam đã bôi đen một số công trình cũng như gây một số thiệt hại cho nền văn-học dân-tộc!


Nguyễn Lệ Uyên: Những nhận định và dẫn chứng minh họa của THT, TVN, NM và NVK đều chính xác. Và, về vấn đề này, đã được các nhà phê bình văn học khẳng định.


Trong các tác phẩm văn học tự nó đã được xuôi theo dòng chảy sáng tạo đa chiều như một lẽ tự nhiên mang giá trị nội hàm về tính nhân văn trong một thế giới không có rào cản, không có sự cấm kỵ. Mọi hiện thực xã hội đều được phơi bày theo cảm quan chân thật của từng tác giả mà ý thức tự do và nghệ thuật được hiểu như luôn là những tìm tòi và đứng về phía cái mới được tôn trọng, đặt lên hàng đầu. Với anh bạn thiết, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, tôi đã từng nói: làm thầy thuốc là để cứu người, làm nhà văn là để cứu đời. Cứu đời ở đây, nằm trong nghĩa văn chương đưa đến cái đẹp cho mọi người dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đưa tác phẩm vào đời sống thật vượt thời gian, vượt mọi thiết chế chính trị. Mỗi một nhân vật trong đó đều mang một bộ mặt khác nhau, tiêu biểu cho các tầng lớp khác nhau, để tạo thành bức tranh xã hội thu nhỏ một cách hoàn hảo trong mọi thời đại. Thời phong kiến, dưới áp lực của Khổng Nho, nhưng Nguyễn Du đã có sự tự do tuyệt đối trong sáng tạo.


Trong 20 năm văn học Miền Nam, chúng ta chưa có những tác phẩm toàn bích như Truyện Kiều, nhưng mỗi một tác phẩm, tác giả cũng đã xây dựng nhân vật, bối cảnh xã hội riêng biệt và hoàn hảo không kém. Mỗi một nhà văn khai thác đề tài ở một góc nhỏ, nhưng nếu gộp chung lại những tác phẩm ấy tạo nên sự đa dạng sắc màu như một vườn hoa nở rộ giữa mùa xuân. Chính sự tự do sáng tạo, tính nhân văn trong tác phẩm đã làm nên sắc màu và hương thơm trong vườn văn ở một giai đoạn ngắn ngủi nhưng rực sáng, đáng tự hào, nếu như mang ra so sánh với dòng văn học cùng giai đoạn này với ngoài kia.


Trần Doãn Nho: Về điểm này, tôi có trình bày khá kỹ trong bài thuyết trình của tôi tại tòa soạn nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014, được in lại trong số báo này.


Nguyễn Vy Khanh: Về VHMN 1954-1975, vẫn còn nhiều đề tài, và vấn đề để nhìn lại lắm. Gần đây tôi muốn xem lại bộ phận “phản chiến” (kiểu thực chất và huyền thoại) và cái CSVN vẫn đề cao và gọi là “văn học Mác-xít ở miền Nam” và đã ghi lại được một số ý tưởng. Tạm thời tôi xin nhắc lại để anh em thảo luận *:


Lữ Quỳnh: Tôi coi trọng ý kiến của anh Nguyễn Vy Khanh, khi cho rằng Văn Học Miền Nam 1954-1975 vẫn còn nhiều đề tài, vấn đề để nhìn lại lắm. Mong rằng ghi nhận của anh về bộ phận “phản chiến” và cái mà Cộng Sản Việt Nam vẫn đề cao và gọi là “văn học Mác-xít ở miền Nam”, được làm rõ. Bên cạnh đó, đánh giá giòng văn học Miền Nam giai đoạn 1963-1975, là thời điểm bắt đầu cuộc nội chiến cho đến ngày kết thúc, đã giết hàng triệu thanh niên hai miền một cách oan uổng, trong đó có bạn bè và gia đình chúng ta. Một nhà văn tử trận khi còn rất trẻ là Y Uyên với nhiều tác phẩm để lại, một Doãn Dân chết mất xác ở Đại lộ Kinh Hoàng – Quảng Trị năm 1972, một Trần Hoài Thư khốn khổ với những tháng năm hành quân ở Bình Định; và còn nhiều nhà văn khác nữa đã ra đi.


Những tác phẩm của họ chưa đủ tầm để được nhắc đến, được nằm trong giòng văn học Miền Nam 20 năm hay sao, bởi các nhà phê bình, trong các cuộc hội thảo?


Tôi tin anh Nguyễn Vy Khanh hiểu những trăn trở này, và, vì anh là nhà phê bình, mong anh hãy tìm hiểu, để trả lại sự công bằng, bình đẳng cho những nhà văn không đủ, không còn điều kiện để lên tiếng.


Nguyễn Vy Khanh: Từ những năm 1964, văn-chương miền Nam dần rời vùng đất hiện sinh, con người văn-nghệ dấn thân đi đến thái độ đối kháng rồi phản kháng – chống Thượng đế, chống thẩm quyền, thượng quyền, nhóm bảo thủ, từ đó có thể thành vô chính phủ hoặc bi quan tột cùng.


Trước hết có những danh xưng cần thẩm định, định nghĩa: Phản-kháng: hiếm có tính nghệ-thuật (ngoài nhạc của TCS), đa phần có tính chính-trị (Nguyên Vũ,…). Phản kháng liên hệ và nhắm một chế độ chính-trị (cũng như phản kháng chống cộng-sản Việt-Nam của văn-học hải-ngoại sau 1975!), nhà văn phải can đảm tỏ bày thái độ chính-trị của mình đối với chế độ chính-trị đó. Và chế độ bị phản đối cũng sẽ sử-dụng thứ văn-chương phản kháng để lèo lái, cài người, để tranh thủ ‘chính nghĩa’ hay phần thắng. Nếu không có hậu ý chính-trị, đảng phái, thì thứ văn-chương phản kháng đích thực sẽ được đón nhận, hoan nghênh. Mà ở đâu có thể có phản kháng có nghĩa là ở đó đã có tự do tư tưởng; nhà văn thơ phản kháng chống cái tưởng là xấu, là tiêu cực, sự việc đó đã chứng tỏ bề mặt tích cực của chế độ!


Phản-chiến: –1, chống chiến-tranh vì chiến-tranh tàn phá đất nước và con người. Phản chiến theo nghĩa này là tiếng nói chân thật của lương tâm và lý trí con người (Thảo Trường, TCS,…); –2, chống chiến-tranh do người cộng-sản Hà-nội đưa vào miền Nam, với ý đồ thống nhất và cộng-sản hóa đất nước Việt-Nam, chiến-tranh Hà-nội thực hiện ở miền Nam với người của miền Nam (MTGP Dân tộc/ MTGPMN thực ra chỉ là chiêu bài cốt tuyên truyền, cổ võ chiến-tranh); –3, chống chiến-tranh do Mỹ và Việt-Nam Cộng Hòa chủ trì (thực ra là chiến-tranh tự vệ chống lại ý đồ xâm lăng miền Nam của Hà-nội cộng-sản, và mang ý nghĩa bảo vệ miền Nam, bảo vệ tự do, bảo vệ và cổ võ cho dân chủ). Nếu phản chiến mà nhục mạ quân lực Việt-Nam Cộng-Hòa, thì không còn là phản kháng nữa, mà là một hành động chính-trị đội lốt báo-chí, văn-học, lạm dụng dân-chủ tự do mà chế độ cho phép, để ‘phản bội’, có thể là do tập đoàn, đảng phái giật giây.


Hòa-bình: chiêu bài, biện minh cho việc cổ võ chiến-tranh; còn con người nói chung và người Việt nói riêng đều mơ ước hòa-bình.


Sau khi chế độ đệ nhất cộng hòa bị đảo chính, miền Nam rơi vào hỗn loạn, bạo động. Từ mất chủ quyền khó tránh mất “chính thống” khi tuyên truyền, chiến tranh tâm lý và chiến tranh lạnh bủa vây. Giới trẻ không kinh nghiệm cộng sản đâm ra hoang mang, mất niềm tin hoặc bất cần hoặc sống hiện sinh cho đã cái hôm nay. Từ khi chiến tranh trở nên khốc liệt cho đến cuối cuộc chiến, một dòng văn chương phản chiến càng phát triển mạnh. Càng về cuối cuộc chiến, phong trào phản chiến càng mạnh vì đồng minh Hoa kỳ đã để lộ một số bộ mặt không mấy lịch sự, “đồng minh” cho lắm, rồi Việt Nam hóa chiến tranh, xã hội đồi trụy và lãnh đạo càng lộ liễu tham nhũng, đái nát.


Theo thiển ý cần phân biệt loại phản chiến hay cấp tiến chân thành của những người làm văn hóa, những tiếng nói của lương tâm (ít ra là của họ) không thể không nói vì muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn có thể lịch sử sẽ phê bình họ sai, như Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (chủ trương Đối Diện, công khai chống chính phủ Sài-Gòn theo kiểu “sống thẳng, nói thật”, “cúi ngửa theo người quyết chẳng theo”), v.v… – với loại phản chiến có bàn tay điều khiển của Việt cộng nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, v.v… Những người này ồn ào giả lên tiếng “bảo vệ văn hóa dân tộc” như Lực Lượng cùng tên với tờ báo Tin Văn (1966) nhưng thực chất là gây rối ngay trong lòng “địch”. Các tạp chí Hành Trình (1964), Đất Nước (1967), Trình Bầy (1968), Đối Diện (7-1969), v.v… là đất trổ cho thứ văn học phản chiến này, Văn và Bách Khoa cũng đăng nhiều thơ truyện phản chiến của các cây viết mới như Ngụy Ngữ, Hồ Minh Dũng, Trần Hoài Thư, v.v… Vấn đề là người lãnh đạo phải biết chấp nhận sinh hoạt dân chủ lắng nghe, phải tạo những cơ hội nhìn thẳng sự kiện và sự thật thường muôn mặt. Nước Việt Nam ngày nay có thể khác và hàng triệu sinh linh có thể hãy còn bên cạnh chúng ta nếu những tiếng nói “thiên hữu” thời Nhân Văn Giai Phẩm và sau đó trong lòng chế độ Hà Nội cũng như những tiếng nói “thiên tả” ở miền Nam Cộng hòa đã được nghe!


Trở lại dòng văn học phản chiến, nói chung là những phẫn uất của trí thức nhưng không tiếng nói, những người dấn thân chính trị nhưng không có đất đứng. Xã hội điêu tàn, giá trị văn hóa đảo lộn, người miền Nam nạn nhân của chiến-tranh nhưng kêu gọi tình huynh đệ, (vô tình) đòi giải quyết chiến-tranh và chuẩn bị hòa bình.


Nhóm Trình Bầy gồm nhiều giáo-sư, trí thức và văn-nghệ sĩ ‘dấn thân’ “tiến bộ”, với bích chương “chống Mỹ cứu nước,” khi ông ra ứng cử dân biểu quốc hội, như Trần Tuấn Nhậm… Nhóm Trình Bầy cổ xúy một loại văn-chương phản chiến, chính trị nhập cuộc, văn chương không thể thờ ơ trước những vấn đề lớn lao của đất nước như chiến tranh, như sự có mặt của quân đội Mỹ và đồng minh ở miền Nam… Vì thế có lúc Trình Bầy đã tấn công nhà văn Mai Thảo, người đứng đầu nhóm Sáng Tạo và gọi khuynh hướng văn chương của nhóm Sáng Tạo là “khuynh hướng văn chương…viễn mơ”, khuynh hướng văn chương chạy theo phong trào văn chương hiện sinh, quay lưng lại những khổ đau của đồng bào, đất nước!


Ngày Mai rồi Bút nhóm Việt ở Huế với Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Đông Trình, Bửu Chỉ, Võ Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành… Trước 1975, họ viết theo chỉ thị, mệnh lệnh để tố cáo chế độ miền Nam, xuyên tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện, Bách Khoa, v.v… Là một nhóm trẻ theo Cộng “đánh Mỹ” và công khai chống chế độ cộng hòa miền Nam, được chế độ cộng-sản đánh bóng gọi họ là những “thanh niên trí thức đô thị miền Nam”. Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết, ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, ‘chuồng cọp’, v.v…) để tổng quát hóa làm lớn chuyện tuyên truyền. ‘Chuồng cọp’ của trại tù miền Nam – do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh được với nhà tù Hỏa Lò ở Hà-nội và những trại tù ‘cải tạo’ trên khắp nước Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có thống kê thì những tù nhân của ‘chuồng cọp’ có mấy người đã chết vì tù hay gần như tất cả đều trở ra sau 1975 và nhiều người được chế độ thưởng công cho giữ những chức vụ trưởng, phó đầu ngành văn nghệ, thông tin của Nhà Nước? Còn thống kê về những kẻ sống ở miền Nam bị đòn tù ‘cải tạo’ thì sao, bao nhiêu chết trong trại tù (có thể trên 100 ngàn) và bao nhiêu được thả về để chết ở nhà hoặc lê lết bệnh tật chết mòn?


Nhóm Ý Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập những cây viết Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh, Mang Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, v.v… Cũng phản đối chiến-tranh nhưng nhóm Ý Thức của những người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra phẫn nộ với lương tâm và ý thức công dân khác nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách điều khiển chiến-tranh phi lý, phí phạm, tả những cảnh cực hình lao công chiến trường (Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh tòa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, trình diện trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v… Các cây viết thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng đồng thời họ đang cầm súng chống cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có mặt của họ cùng với các nhà văn khác như Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái Độ của Thế Uyên, Hành Trình của Nguyễn Văn Trung, Trình Bầy của Thế Nguyên, Diễm Châu, Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu sĩ Công giáo (Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, …), v.v..; chứng tỏ miền Nam đã trưởng thành về chính trị, chấp nhận đối lập và tiêu cực dù trong tình cảnh chiến tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân đạo) đã bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp đã tỏ ra yếu kém (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián điệp, v.v…). So với nhóm Việt, nhóm Ý Thức nhiều người cầm súng, để bảo vệ miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác họ phải bảo vệ đất nước của họ, dù họ biết cấp trên có người không tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư:

“Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. Đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. Địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa-thịnh-đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (…) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ…”(Nhật Ký Hành Quân).

Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dễ dãi cho mọi hành động: “Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm, khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. Đừng bận tâm và thắc mắc. Đừng tự ái và ghê tởm. (…) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh…”.

Người lính của Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến!


Cần phải nhận định lại khuynh hướng này qua các tác giả Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, Thế Uyên, Trần Hoài Thư, Nguyên Vũ, Hoàng Khởi Phong, Luân Hoán, Thái Lãng, Nguyễn Bắc Sơn,… cũng như Kinh Dương Vương, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Trần Duy Phiên, Cung Tích Biền,…


Văn-nghệ phản chiến đã xuất hiện – và chỉ có ở miền Nam vì miền Bắc từ sau biến cố Nhân Văn Giai phẩm đã không có tiếng nói khác với điệp khúc cổ võ chiến-tranh của Đảng và Nhà Nước, và khuynh hướng văn-nghệ này lan rộng ở miền Nam từ những năm 1965, 1966 cho đến cuối cuộc chiến tháng Tư 1975. Đây là do ảnh hưởng và là hậu quả của phong trào phản chiến ở Hoa-kỳ và một số diễn đàn thiên tả ở Âu châu, phong trào “make love, not war”, khởi từ cuộc biểu tình cho hòa bình (Mother’s day Peace March) tại Hoa Thịnh Đốn ngày 14 tháng 4 năm 1965 sau khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. Các sinh viên du học như Ngô Vĩnh Long, cùng các giáo-sư thiên tả như Noam Chomsky và Howard Zinn đi đến nhiều đại học thuyết trình về sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam cũng như tác động các cuộc biểu tình phản chiến của sinh viên Hoa-kỳ. Phong trào phản chiến được nuôi dưỡng thêm với những trí thức thiên tả như Bertrand Russell, Jean-Paul Sartre,… Và dĩ nhiên có ảnh-hưởng của nhạc phản chiến, bên cạnh phong trào sống hippy ở Âu Mỹ. Những phong trào nghệ-thuật cổ võ hòa bình ở Âu Mỹ đã tạo ra dòng nhạc phản chiến với những nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Nhạc phản chiến của Bob Dylan đã vào Việt-Nam qua những ca khúc với những lời lẽ tả thực chiến tranh cốt để chống đối, phản kháng. Còn ca sĩ Joan Baez từng đến hát Hà Nội năm 1972.


Người nghệ sĩ Việt-Nam nhảy vào cuộc chống đối qua âm nhạc với khuynh hướng nhạc “tâm ca” của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Khác với phong trào Du Ca (chính thức thành lập 19-12-1966 tại đại học Ðà Lạt) và một số phong trào Thanh niên thiện chí, Sinh hoạt học đường, CPS, …, Tâm ca kêu gọi hòa bình, tình đồng bào, còn nhạc Trịnh Công Sơn thì công khai tố cáo chiến tranh (nội chiến), kêu gọi hòa bình bên cạnh những ca tụng tình người, nô lệ da vàng, thân phận nhược tiểu:


Một buổi sáng mùa xuân / Một đứa bé ra đồng

Đạp trái mìn nổ chậm / Xác không còn đôi chân.


Nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành hiện-tượng và huyền thoại Trịnh Công Sơn vào những năm 1966-1972 vì nhạc của ông đã đáp ứng lại một số khát vọng của con người thời đại, nhất là ở chốn thị tứ, học sinh, sinh viên và một số trí thức. Ông diễn tả buồn đau trong thân phận làm người. Nhạc tình và nhạc tranh đấu kêu gọi hòa-bình và thân phận con người trong chiến tranh; những ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng như Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, Ðại Bác Ru Ðêm, Tình Ca của Người Mất Trí, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời,… Chiến tranh không còn từ xa vọng về mà nay đang ở trước mắt và với ông, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn mà chính người Việt Nam đôi bên đều là nạn nhân. Dù sao cũng phải nhìn nhận Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ qua cấu trúc, hình ảnh cũng như những “ý tại ngôn ngoại” bí ẩn của con chữ! Từ năm 1968 tiếp đó nảy lên một khuynh hướng nhạc đấu tranh do Việt-cộng điều động với những Phạm Thế Mỹ, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập, … cùng Trịnh Công Sơn.


– Trong khi đó, ấn phẩm cộng-sản Việt Nam cổ động, hô hào chiến-tranh – Văn học phản kháng, chống đối thẩm quyền miền Nam để hỗ trợ chiến-tranh chống Mỹ và xâm chiếm miền Nam. Nếu văn-nghệ sĩ miền Nam vì ước mơ hòa-bình mà phản chiến thì văn công miền Bắc cổ võ trường kỳ chiến-tranh nhưng lại nhân danh “hoà-bình”! Ấn phẩm cộng-sản cổ võ chiến-tranh đến cùng, không ngừng nghỉ, nêu đủ lý do để chiến-tranh (chống phong kiến, phát xít, ngoại xâm, thực dân mới, v.v…) với thơ văn chiến-tranh của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, … Hà-Nội chú trọng nhiều đến việc in tài liệu tuyên truyền và báo-chí trong bưng: cổ võ chiến-tranh, giết ‘kẻ thù’, … Tóm một chữ, thơ văn sát khí, cổ võ hờn căm, phân bạn chia thù. Một văn học của chiến tranh, chống Mỹ mà họ gọi là “sen đầm quốc tế”; văn học muốn “cứu nước” và cứu người miền Nam khỏi tay thực dân mới cũ (!). Đối với Cộng Sản mà cầu hòa là đầu hàng vô điều kiện, phản chiến là từ bỏ khí giới cho địch thủ ám sát mình. Những người trí thức, dù họ là ai, cũng chỉ nhìn vấn đề trong suy luận, chứ không thể nhìn trong thực tại, mà thực tại ở Việt Nam với cuộc chiến này nó khác hẳn với các cuộc chiến tranh trên thế giới. [Trong một bài trên tạp chí Sông Hương sau này, Lê Xuân Việt cho rằng, văn học trước 1975 ở miền Bắc “tập trung xây dựng hình tượng giàu tính lý tưởng về người anh hùng” do đó “yêu cầu phản ánh kịp thời, động viên tinh thần quần chúng đôi khi lấn át cả những đòi hỏi của chất lượng hình tượng văn học đáng ra cần phải đạt được mà người nghệ sĩ phải cần mẫn, miệt mài trong sáng tác” (“Kết cấu của tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh”. Sông Hương 10-1996. Tr. 57)].


* Về “Mảng” văn-nghệ Mác-xít, cộng-sản 1954-1975:


Trong hơn 20 năm văn-học miền Nam, đã có sự hiện diện của một khuynh-hướng văn-nghệ Mác-xít hay Mác-Lê và cộng-sản – chúng tôi phân biệt Mác-xít hay/và Mác-Lê thiên lý thuyết chính-trị và cộng-sản khi áp dụng vào đấu tranh cách-mạng và đời-sống cụ thể.


Từ thời đầu 1954 cho đến 1975 đều có những nỗ lực đến gần chủ nghĩa Marx, nhất là đối với một số trí thức, nhà văn Công-giáo thiên về đấu tranh cho công bằng xã hội, vì tự bản chất, đạo Thiên chúa đến với trần gian (qua Jesus) để đem đến công bằng xã hội, tình người, … chống lại người Do Thái đạo đức giả, v.v… Các tu sĩ các dòng Phanxicô, anh em hèn mọn (Phước sơn), v.v… sống gần và sống vì, sống với người nghèo, khốn khó, có những cá nhân tu sĩ và hội đoàn như Thanh sinh công (trụ sở ở chợ Cầu Ông Lãnh, Sài-Gòn). Nghĩa là chủ nghĩa Marx vào miền Nam qua các trí thức, sinh viên, tu sĩ du học ở Pháp, Bỉ, Ý về. Ông cố vấn Ngô đình Nhu (thời 1954-63) có những bài viết, diễn văn theo chiều hướng thiên tả này (chủ nghĩa Cần Lao, tạp-chí Xã Hội). Sau 1963 có những hội đoàn, nhóm trí thức, nhà văn thiên tả hay xã hội như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Thanh Lãng, Thế Nguyên, v.v… Những mảng văn-hóa này được tự do phát triển, công khai – dĩ nhiên mảng văn thơ, sách báo cách-mạng do miền Bắc và Mặt trận Giải Phóng miền Nam điều động thì bị hạn chế nhưng không bị cấm đoán (chỉ bị kiểm duyệt phần nào). Nghiên cứu mảng văn-học này cần tham khảo các tạp-chí xuất-bản thời miền Nam, nhất là Trình Bầy, Hành Trình, Đối Diện, Đất Nước, Tin Văn, Văn Học,… cũng như báo-chí sinh viên từ các phân khoa Văn, Sư phạm Sài-Gòn, đại học Vạn Hạnh, v.v…


Khác với miền Bắc mà nền văn-nghệ cùng lý luận văn nghệ Mác-xít trong thực tế là một phó bản của thẩm mỹ học Liên Xô cộng-sản, ở miền Nam khuynh-hướng này tự do đi từ lý thuyết đến phát biểu cụ thể trong sáng-tác văn-nghệ. Miền Bắc cộng-sản đã lập “khung tri thức” định hướng cho các sinh hoạt sáng tác và lý luận phê bình văn học, mà gần đây nhiều nhà lý luận văn-nghệ đã nhận chân và chứng minh những hạn chế hiển nhiên của phản ánh luận Mác-xít trong phiên bản Xô Viết, dưới ánh sáng của “nhóm Bakhtin, lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực của G. Lukacs, v.v… Phó bản thẩm mỹ học Mác-xít Xô-Viết mà nền lý luận văn nghệ Việt Nam tiếp thu thời này đã không tránh khỏi nhiều hạn chế, với những Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, …


Trong khi đó, ở miền Nam, nói đến triết lý và văn-nghệ Mác-xít và cộng-sản là người ta nghĩ ngay đến điểm khởi hành với các giáo-sư Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, v.v… Nếu giáo-sư Trần Văn Toàn trình bày giới thiệu chủ nghĩa Mác gần như thuần túy giáo khoa, triết lý – qua Tìm Hiểu Triết Học Karl Marx (Nam Sơn, 1965. 160 tr.), thì giáo-sư Nguyễn Văn Trung vừa giới thiệu vừa áp dụng vào lý luận văn-nghệ và sáng-tác. Bộ Hành Trình Trí Thức của Karl Marx chỉ mới xuất-bản tập 1 “Con người và cuộc đời” (Nam Sơn, 1969. 150 tr.), trong Lời Nói Đầu đã khởi đi từ nhìn nhận rằng “chủ nghĩa Mác chưa lỗi thời, phong trào Cộng-sản chưa trở thành một sự kiện lịch-sử đã qua vì phong trào Cộng-sản vẫn đang làm lịch-sử và trên bình diện tư tưởng, chủ nghĩa Mác vẫn cống hiến một số phạm trù, lược đồ xác đáng để lãnh hội và phân tách những thực tại chính-trị, xã-hội, văn-hóa…“ (Tr. II). Lời cuối tập là một lời thán phục con người, cuộc đời và hành trình trí thức của Karl Marx, dù có thể không đồng ý với quan niệm và chủ trương của ông ta. Có thể các lập luận này đưa đến hiện-tượng nghiên cứu, thảo luận về chủ nghĩa Mác-xít lúc bấy giờ; Mác-xít hết còn là cấm kỵ?


Giáo-sư Nguyễn Văn Trung còn soạn các giáo trình Nhận Diện Marx (Cours 1970, 212 tr.) và Lê-nin (Lý luận cách-mạng) (Giảng văn dùng cho sinh viên các trường đại học, niên khóa 1972-73). Ở cuốn trước, giáo-sư đặt vấn-đề nhận diện, còn trong cuốn sau, viết năm 1970, năm kỷ niệm 100 sinh nhật Lênin, và thể theo “yêu cầu của mấy trường Đại học, đặc-biệt trong những khóa nghiên cứu học hỏi về Chủ nghĩa Mác-Lênin”, giáo-sư cụ thể nói đến các chiến lược chiến thuật làm cách-mạng và những bài học cách-mạng mà Lênin đã để lại.


Các tác-phẩm và giảng văn nói trên đã giúp sinh viên và người đọc hiểu hơn tư tưởng và ý thức hệ Mác-Lê và có thể đã góp phần can thiệp một cách trí thức và ý thức vào những vận động cách-mạng và chính-trị ở miền Nam lúc bấy giờ. Có sinh viên đã tham gia các phong trào thiên tả, thiên cộng cả ngay ở môi trường đại học (ra báo, in tài liệu gọi là ‘học tập’ có lợi cho cộng-sản), cả vào “bưng” theo “cách-mạng” (khi bị lộ hoặc tự nguyện, như thư-từ gởi cho giáo-sư Trung từ mật khu – trường hợp Trường-Kháng Lê P.Đ.,…** ) và có sinh viên trở nên triệt để hơn trong việc chống Cộng và có người đã trở thành nạn nhân của người cộng-sản Việt-Nam (Ngô Vương Toại, Lê Khắc Sinh Nhật, Bùi Hồng Sĩ,…).


Người Cộng sản VN có lối nhìn khác, xem chiêu bài ‘văn-nghệ dân-tộc’ là văn-nghệ Mác-xít, như các giáo-sư Trần Hữu Tá, Trần Hoài Anh,… Đây là một chủ nghĩa Mác-xít bị/được các Đảng cộng-sản và chính quyền cộng-sản sử-dụng như là công cụ, phương-tiện tranh đấu, chứ không còn là một triết lý nguyên thủy. Nay thì đã rõ, đấy chỉ là chiêu bài và Vũ Hạnh theo cộng-sản từ trước đã tiếp tục ‘nằm vùng’ thi hành mặt trận văn-hóa của Việt-cộng. Mỹ học hay văn-chương đều không/khó có thể tìm thấy trong những gì Vũ Hạnh, Lữ Phương,.. đề cao, cổ động trong suốt thời-gian này. Còn quan điểm mỹ-học Mác-xít là gì? Phê-bình Mác-xít trong văn-học là gì? Chỉ là quan điểm văn-học cách-mạng dùng cho mặt trận đấu tranh tư tưởng, để đối chọi với cái được gọi là ‘cuộc xâm lăng văn-hóa’ của ‘chủ nghĩa thực dân mới’.


Thứ nữa, họ hay nhắc nhở, nói đến vai trò, trách nhiệm, sứ mạng của nhà văn! Phải đứng về phía đông đảo, phía những người bị thiệt thòi trong xã-hội! Phải đấu tranh cho tự do, dân-chủ! Phải yêu nước, phải ý thức về dân-tộc và ‘tổ quốc, quê-hương’! Phải hướng về nguồn cội! Từ đó, Vũ Hạnh phê-bình tác-phẩm của Chu Tử là thác loạn, sa đọa, ích kỷ, Vũ Khắc Khoan ảo tưởng,… Còn Lữ Phương đề cao tinh thần yêu nước và cách-mạng nhất là giới trí thức, và tác-phẩm phải gắn liền với thực tại xã-hội, từ đó phê phán nặng nề Hồ Hữu Tường, Lê Xuyên, Minh-Đức Hoài-Trinh, Chu Tử, Nguyễn Thị Hoàng, Dương Nghiễm Mậu,… Nguyễn Trọng Văn cũng theo con đường đó phê phán Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân,…


Trong một chiều hướng nào đó, nói đến dân-tộc là kéo lùi văn-nghệ, biến văn-học thành ca dao, truyện cổ,… Ngoài đặc tính dân-tộc, văn-học bình dân có tính giai cấp, văn-chương có tác-giả và đặc tính riêng và thường là của một tầng lớp xã-hội nào đó (trí thức, tiểu tư sản,…). Khi Pháp chiếm miền Nam lục-tỉnh đã sử-dụng Nho giáo và luân lý, phong hóa Việt xưa để thu phục nhân tâm với mục-đích yên bề thống trị. Lực lượng Bảo vệ Văn-hóa Dân-tộc được thành hình từ bưng biền của MTGPMN, mặt công khai với nhóm Tin Văn và những Vũ Hạnh, Lữ Phương,… cũng sử-dụng những cái gọi là “văn-hóa dân-tộc” để gây chống đối ở miền Nam.


Lữ Phương viết Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (Hà-nội: Văn hóa, 1981, tái-bản 1985) dựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lý luận, phê bình chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lý luận cộng-sản. Ông ta đã chứng minh “thực dân mới Mỹ” và các chính quyền miền Nam dùng “chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng” để “xâm lược” và “bành trướng” cùng “chiến-tranh tâm lý là đòn bẩy của mọi hoạt-động văn-hóa – tư tưởng” (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,… được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là “đội quân văn-hóa phản động”, là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lý Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quý, v.v… Văn-hóa dân-tộc chủ trì bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,… là những nhà lý thuyết theo ông là “bản địa” và lạc hậu, thần bí,… không … khoa học như … Mác-Lê cộng-sản. Ông còn có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lý văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, tình dục,… Không riêng gì LP, các giáo-sư và giới nghiên cứu của miền Bắc trước 1975 và cho đến nay vẫn gán ghép Sartre và thuyết hiện sinh với lối sống họ gọi là ‘tiêu cực, suy đồi, công cụ của đế quốc, kẻ thù’ của một số thanh niên Pháp ở St-Germain-des-Prés là hình ảnh phụ vào ngay sau chiến-tranh 1945, từ đó gán ghép trùm lên đầu sách báo của miền Nam muốn hiện đại, cập nhật với Âu Mỹ! Từ những năm đầu thập niên 1960, giới trí thức và chính-trị ở miền Nam đã phê phán chủ nghĩa hiện sinh làm nhụt nhuệ khí chống Cộng (báo Văn Đàn…). Người cộng-sản miền Bắc cũng phê phán nặng nề Sartre và thuyết hiện sinh: Đỗ Đức Hiểu trong Phê Phán Văn-Học Hiện Sinh Chủ Nghĩa (Văn Học, 1978) đã phê phán nặng nề mảng văn-học này, như muốn làm … tiêu tan ý chí chống đế quốc, thực dân mới và tay sai.


Trần Hoài Thư: Nếu xem văn chương đích thực là văn chương vì con người, cho con người, tôi nghĩ hầu hết nhà văn nhà thơ – trừ một số ít chủ chiến- đều ít nhiều mang tư tưởng chống chiến tranh hay nói nôm na là phản chiến.


Có điều nếu kết án một tác phẩm chống chiến tranh thì lời kết án nhẹ hơn nếu kết án tác phẩm là phản chiến. Tại sao? Có lẽ xã hội VN đã bị cái chữ “phản” này hành hạ quá nhiều nên đâm ngán. Nào là phản động, phản đảng, phản bội… Để cuối cùng là những cái chết ghê rợn như tố khổ, chôn sống, trấn nước… hay cho một phát súng cùng với bản án treo quanh cổ…


Nhưng mà, một câu hỏi là tư tưởng có thể hiện qua hành động hay không? Có bỏ ngũ để nhập vào hàng ngũ địch? Có quay mặt với trách nhiệm hay không? Có chưa đánh đã đầu hàng không? Có chu toàn nhiệm vụ hay không?


Xin nhớ hành động phản chiến khác với tư tưởng phản chiến. Hành động có thể là làm thầy tu bất đắc dĩ, trốn lính, chấp nhận ở tù hay phá hủy thân thể. Nhưng tư tưởng thì ở trong đầu và được trút ra trên giấy. Ra trận dù rét run, dù phản chiến nặng, nhưng không chạy, không bò, không hò hét xung phong, không ném lựu đạn, không bóp cò, thì một là hắn bị đưa ra tòa án quân sự, hai là hắn bị kẻ thù giết trước. Chứ không biện hộ là tôi chống cuộc chiến nhơ bẩn này, tôi không hành quân. Ở đó mà biện hộ.


Nếu kết án thì giữa những tiếng nói trầm thống bi thiết phát xuất từ những người có mặt thật sự trong cuộc chiến như thế này:

“Cuộc chiến lan rộng rồi. Cuộc chiến đã vượt qua biên giới Việt Nam, đã vượt khỏi biên giới Cam-pu-chia, đã tràn sang tới Hạ Lào.


Tôi ù tai vì tiếng động cơ, vì tiếng nổ của các thứ máy móc giết người mà tôi biết không phải là sản phẩm kỹ nghệ Việt Nam. Tôi choáng váng trước cái cảnh từng lớp người gục xuống. Về tới đơn vị, hình ảnh ghê rợn, hãi hùng của cả một tấm thảm nhiều màu dệt bằng xác người đó, đêm đêm vẫn ám ảnh tôi, chắc sẽ ám ảnh tôi đến khi thôi sống. Tôi không thể phân biệt được đâu là xác người chiến sĩ Quốc Gia, đâu là xác người Cộng Sản. Điều chắn chắn, ông ơi, thì đó chỉ là xác của người Việt. Và là những người chưa kịp sống. Nghĩa là những người trẻ. Phải làm một cái gì. Chậm quá rồi chăng? (một lá thư, một vấn đề, tạp chí Vấn Đề số 49 tháng 8-1971)

Và một đoạn trong truyện “Phố miền Nam” của Ngụy Ngữ đăng trên Vấn Đề số 50 tháng 9-71, chủ trương Vũ Khắc Khoan & Mai Thảo:

“Thành phố đang sinh hoạt bình thường, chợt có tin lính rằn ri đổ đến, tất cả nhốn nháo sợ hãi và những cánh cửa tiếp theo nhau khép nhanh lại, chợ tan, người thưa thớt tới lui khép nép, khắp các đường lớn đường nhỏ không còn một bóng gái trai…” (Phố miền Nam – Vấn đề 50 tháng 9-71).

Hay một đoạn truyện ngắn khác cũng trên Vấn Đề:

“Những hình ảnh thoáng hiện, tan nhanh đi, rồi lại thảng thốt hiện ra lại, tiếp vào những hình ảnh khác: những mặt trận đêm, những trại đồn, những vách tường trơ trọi cháy đen, những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn…(Theo những đường bay đi xa – Vấn Đề 46 tháng 5-1971).

Hay trong truyện “Với trăng hạ tuần lên” của Ngụy Ngữ mà tựa truyện, tên tác giả được “vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời” trên trang bìa, ngay phía dưới là tên hai người chủ trương Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo:

“… Không. Vâng, không phải người ta quay lại cảnh khốn nạn đó để đám thanh niên Nam Việt sợ không dám đầu quân đi lính để chết mất xác bên Miên bên Lào hoặc để lên án cuộc chiến tranh phi nhân đang thiêu sống cả một thế hệ thanh niên trên khắp bán đảo Đông Dương này, mà trái lại, là đang hỗ trợ thêm cho chiến tranh, đang vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời trên cái vóc dáng biệt kích của bọn lính Nam Việt, ve vuốt vào cái kiêu hãnh bệnh hoạn của chúng, kéo chúng ở lại trong hàng ngũ để bảo vệ cái dải đất tăm tối thời Mỹ này khỏi rơi vào “vòng nô lệ của Cộng Sản” (Vấn Đề số 52 tháng 11-71).

Như vậy giữa tư tưởng phản chiến và những tội ác, xấu xa mà Ngụy Ngữ đã chụp trên những người lính miền Nam chúng tôi, thì cái nào mới là đáng buộc tội, lên án?


Tôi cũng tự hỏi, sau khi các truyện này đăng, không biết có phản ứng nào về phía độc giả hay nhà văn/nhà thơ/ mang áo lính tại Saigon mà sao Vấn Đề càng ngày càng thừa thắng xông lên?


Tôi tự hỏi tại sao Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan là nhà văn xem như chống Cộng, lại chấp nhận cho đăng? Chẳng những thế còn quảng cáo ngoài trang bìa?


Hay là vì miền Nam có tự do, tôn trọng quyền tự do trong ý thức sáng tác mà tạp chí Vấn Đề chủ trương?


Tôi cũng tự hỏi, nếu người dân miền Bắc đọc các đoạn này thì họ nghĩ gì? Giữa một bản nhạc TCS: Khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm… và 3 đoạn này (cùng nhiều đoạn trong hầu hết các truyện của Ngụy Ngữ), cái nào tác hại cho công cuộc chống Cộng hơn?


Nguyễn Lệ Uyên: Đây là đề tài rộng, cần rất nhiều trang giấy. Trong khuôn khổ một tạp chí giới hạn trên dưới 300 trang thì không thể tải hết.


Vắn tắt thì thế này: Phản chiến? Từ này khó xác định. Theo tôi phản chiến dành để chỉ cho một hành động tích cực của một hay nhiều chủ thể (và ngược lại với phía đối lập) một cách rõ ràng. Hành động phản chiến của nhóm J. Fonda trong chiến tranh Việt Nam là một hành động có ý thức và tích cực đối với bọn họ và ngược lại rất dối trá với sự thật hiển nhiên đối với bên bị phản đối. Những ca khúc phản chiến của Bob Dylan và gần hơn với chúng ta là Ca khúc da vàng của TCS, thì đó là những âm thanh và ca từ mang ý thức phản kháng bắt nguồn từ nghệ thuật (kể cả những bức tranh của Picasso vẽ về cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha chẳng hạn) hướng về mục tiêu phơi bày bộ mặt phi nhân tính đối với các bên tham gia, không thiên về phe nào, bên nào.


Giai đoạn 54-75, ở miền Nam không thiếu các tờ báo núp dưới danh “đối lập, phản chiến”, thực chất là do CS giật dây. Những Lê Văn Ngăn, Ngô Kha, Thái Ngọc San, Võ Trường Chinh, Võ Quê, Lê Gành… chỉ là những kẻ theo đóm ăn tàn, chưa phải và cũng chưa xứng đáng gọi là phản chiến hay danh giá hơn theo cách gọi của CSVN là văn học Mác-xít. Đơn giản thơ văn của họ đơn điệu ở chỗ kêu gào, khi sử dụng văn vần để chuyển tải nội dung, và thiếu hẳn tính chất nghệ thuật, thiếu cả chiều sâu lắng của nội tâm. Chúng không hề là nghệ thuật, mang tính tố cáo một chiều, trái với bản chất nghệ thuật chân chính.


Giai đoạn 63-75 đặc biệt phức tạp, kể từ khi nền đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ và quân Mỹ kéo vào miền Nam. Xã hội bị xáo trộn, bị lật tung lên, mọi giá trị văn hóa truyền thống nhấp nhổm như làm xiếc, có nguy cơ tiêu vong từng phần. Lợi dụng tình thế này, CSVN tung cán bộ vào các bộ phận xã hội miền Nam, từ kinh tế, chính trị, tôn giáo đến văn hóa văn nghệ. Những tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Hành Trình, Trình Bày, Tin Văn… với hàng loạt các khuôn mặt giả danh yêu nước nổi lên công kích một chiều. Hiệu ứng của nó phần nào có kết quả bởi sự có mặt của quân đội đồng minh (Nam Triều Tiên, Úc, Thái Lan) của Mỹ tại miền Nam, như hiện thân của kẻ đi xâm lược, và là nỗi ám ảnh nặng nề của người dân vừa mới thoát khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Chiêu bài thực dân kiểu mới được CSVN dựng lên, rồi được sự tiếp sức của những Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lữ Phương… trên những tạp chí phát hành công khai tại Sài Gòn!


Thực chất, thì với những tạp chí này, với các nhà văn này, không hề đối lập trên bình diện phản biện xã hội mà là sự lợi dụng tự do dân chủ ở miền Nam để khuấy rối xã hội, chính trị, làm nhiễu chính nghĩa cần được phát huy, bảo vệ: Tự Do, Dân Chủ.


Như vậy, vấn đề anh Nguyễn Vy Khanh đặt ra, tôi không nghĩ nó là dòng văn học Mác-xít bên cạnh dòng văn học tự do của Miền Nam; bởi dòng văn học nào, thì ít nhất nó cũng phải mang chút ít tính nghệ thuật, đằng này chỉ là những lời rao tuyên truyền, dựng đứng những sự việc không thật một cách trắng trợn để làm phân rã ý thức là mục đích cuối cùng của họ để chiếm lĩnh, nhuộm đỏ miền Nam. Nghệ thuật chưa bao giờ mang tính chất đó.


Trường hợp tạp chí Vấn Đề cho đăng những mẩu truyện của Ngụy Ngữ như anh Trần Hoài Thư vừa dẫn, tôi nghĩ là một trường hợp biệt lệ. Hai ông Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo, là những người từng hiểu cộng sản hơn ai hết. Vậy có phải chăng người phụ trách thư ký tòa soạn đọc văn bản không kỹ, vì cứ cho Ngụy Ngữ là nhà văn đã quen thuộc với độc giả rồi, xem qua loa và ném cho bộ phận sắp chữ? Thứ đến, khi nộp bản, các quan chức bên Sở kiểm duyệt tin ở hai ông VKK và MT chăng? Đây là trường hợp khá lạ lùng, xuất hiện vào thời điểm Sở kiểm duyệt bắt đầu siết chặt các tạp chí, bắt đổi thành “giai phẩm”.


Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh, thực ra là câu gợi ý cho ta tìm hiểu “thực chất và huyền thoại” của tính phản chiến trong chiến tranh 1954-1975, nhất là sau khi nửa triệu quân Mỹ tham chiến trực tiếp tại miền Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam). Chắc còn lắm “thực chất và huyền thoại” mà ta chưa được biết. Riêng tôi có vài ý kiến về ba dạng phản chiến. Thứ nhất là “Phản Chiến Địch Vận” của phe Cộng Sản nhắm làm chán chường chiến tranh trong hàng ngũ Miền Nam. Thứ hai là “Phản Chiến Nhân Bản”: Công kích chiến tranh rộ lên từ dư luận thế giới, họ xót đau cho nhân dân Việt Nam, chủ yếu là công kích Hoa Kỳ. Và thứ ba, “Phản Chiến Thở Than Thân Phận Đất Nước”: Do có lệnh cấm rồi cứ để mặc cho phổ biến văn thơ và âm nhạc phản chiến lưu hành rộng rãi, nên ta nghĩ có thể đây là sách lược Tâm Lý Chiến của chính quyền Miền Nam. Phải chăng đó là cách động viên quần chúng Miền Nam đừng ngả về phe Xã Hội Chủ Nghĩa: ngầm nhắn nhủ người Việt ở Miền Nam đằng nào cũng phải ở về một phía trong thế kình địch giữa Cộng Sản và Tư Bản, số phận đất nước đã an bài trên bàn cờ quốc tế.


Trần Doãn Nho: Về điểm này, tôi cũng đã trình bày khá kỹ trong bài thuyết trình của tôi tại tòa soạn nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014, mời xem lại trong số báo này.


Lữ Quỳnh: Đã có người đặt câu hỏi là, liệu những tác giả ở trong cuộc chiến (1963-1975), tác phẩm của họ đã đủ tầm để hiện diện bên cạnh những tác phẩm của các tác giả trước họ một thế hệ? (Sở dĩ có câu hỏi này, vì trong sinh hoạt văn học nghệ thuật thời gian qua, họ không được nhắc đến).


Tôi nghĩ chúng ta, nhất là những nhà phê bình (mà hầu như thời gian qua vắng bóng) nên tìm hiểu để thấy giá trị đích thực, một cách công tâm và công bằng cho một thời kỳ văn học máu lửa của dân tộc.


Luân Hoán: Tôi khó có nhận định theo gợi ý của anh Lữ Quỳnh, mà không nói về một chút cái tôi: Nhờ sự rủi ro mất một bàn chân ngoài mặt trận, tôi được một vài nhắc nhở an ủi trước cũng như sau 1975, bởi quý tác giả Cao Thế Dung (Văn Học Hiện Đại), Võ Phiến (Văn Học Miền Nam – thơ).


Với cá nhân, các nhà biên khảo đã bỏ lơ có thể vì thi tài của tôi còn yếu kém, chưa đủ phản ảnh một nét gì cụ thể, một phần khác họ thiếu tài liệu cụ thể. Hai lý do thật chính đáng.


Tuy nhiên với các tác giả đồng thời khác, bị bỏ lơ, chính là sự thiếu sót rất đáng tiếc của giới biên khảo, nghiên cứu về văn học nghệ thuật. Trong nhận định hạn hẹp, không dẫn chứng, tôi tin tưởng lớp tác giả của giai đoạn 63-75 của anh Lữ Quỳnh nêu, rất xứng và cần thiết được đặt cạnh cùng các tác giả ở giai đoạn trước. Có như vậy mới trọn vẹn một giai đoạn văn học nghệ thuật của miền Nam. Điều cần là tìm lại tài liệu cũ để phổ biến. Những người viết mới không đề cập gì, cũng như không tỏ ra ảnh hưởng gì bởi tác phẩm của giai đoạn cũ, nhưng không có nghĩa họ không tìm đọc, không có rút tỉa gì ở những cái đã qua thời.


Trần Văn Nam: Nhà văn Lữ Quỳnh đặt vấn đề tại sao các tác giả văn thơ trong thời chiến ít được nhắc đến, có phải vì văn thơ của họ chưa đủ tầm cỡ? Với bài “Các Thời Kỳ Văn học Miền Nam Từ 1963 Đến 1975” (Trong cuốn sách “Trong Dòng Cảm Thức Văn Học Miền Nam” của Trần Văn Nam, xuất bản năm 2006 tại Hoa Kỳ), tôi cũng có thắc mắc này. Kiểm điểm thì chỉ biết Văn Học Miền Nam thường nhắc đến các tác phẩm như “Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi” của Nguyễn Bắc Sơn, “Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp” của Thảo Trường. Phải chăng còn nhiều tác phẩm ưu tư chiến tranh, cũng có tính phản chiến, mà chỉ lấp ló vì mang những nhan đề “không nhạy cảm” bằng các nhan đề sách kể trên. Chỉ những bài thơ khi được phổ nhạc thì mới phổ biến sâu rộng như “Kỷ Vật Cho Em” của Linh Phương (Phạm Duy phổ nhạc); hoặc như “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Tô Thùy Yên (Trần Thiện Thanh phổ nhạc)… Nay ta được biết số lượng văn thơ viết liên hệ đến chiến tranh đã có thật nhiều trong các tạp chí Văn, Bách Khoa. Nhất là ở tuần báo Khởi Hành nhờ được quy-chế không cần đem bài đi kiểm duyệt, do vậy chất chứa nhiều nét hiện thực trong cuộc chiến mà không bị đục bỏ như khi gửi đăng ở các báo khác.


Nguyệt Mai: Những người viết “trẻ” của thời (1963-1975) hiện nay đa số tuổi đời đã trên dưới 70. Có thể kể đến:


Về thơ: Nguyễn Nho Nhượn, Phan Nhự Thức, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Vũ Hữu Định, Linh Phương, Nguyễn Bắc Sơn, Đynh Hoàng Sa, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Tất Nhiên…


Về văn: Nguyễn Mộng Giác, Y Uyên, Doãn Dân, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Thanh Trịnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Lữ Quỳnh,….


Tôi nghĩ rằng họ rất xứng đáng đứng bên cạnh những tác giả trước họ một thế hệ. Họ đã đem đến cho văn chương một sinh khí mới. Như lời nhà văn Mai Thảo khi giới thiệu hiện tượng những người viết trẻ trên tạp chí Văn số 197 (1-3-1972) cho rằng họ “làm sống lại thể truyện ngắn, đem lại cho truyện ngắn hơi thở, một kích thước và những triển vọng mới sau một thời gian bị lu mờ trước ngọn triều tràn ngập của thơ tự do và các tác phẩm truyện dài. (…) Chúng ta không chỉ nhìn thấy những nhà văn trẻ sống và viết. Chúng ta còn nhìn thấy họ lên đường. Và mang theo thể truyện ngắn vào một lên đường mới” (tr. 2).


Trần Hoài Thư: Tôi nghĩ mỗi nhà văn đều có một thời để sống và để viết. Thanh Tâm Tuyền chỉ có thời Sáng Tạo để có những bài thơ tuyệt vời. Chính ông đã thú nhận là kể từ năm 1960, ông không làm một bài thơ trong vòng 10 năm, trong loạt bài mang tên Âm Bản của tuần báo Khởi Hành số 52. Võ Phiến chỉ có những tác phẩm viết về quê nhà của ông ở Bình Định. Tương tự, Doãn Quốc Sỹ có Dòng Sông Định Mệnh, Mai Thảo có Đêm Giã Từ Hà Nội… Còn ai nữa. Còn Vũ Khắc Khoan với Thần Tháp Rùa. Còn Mặc Đỗ với Siu Cô Nương


Thời của các vị này là thời bình, còn thời chúng tôi là thời chiến.


Chúng tôi có ít tác phẩm vì làm sao mà về SG để mà nạp bản kiểm duyệt lo phát hành, dù bản thảo hàng ngàn trang chất ứ trong ba-lô.


Tuy nhiên, muốn đánh giá trung thật nhất là mở ra các tạp chí văn học thời danh, xem thử giới nào viết nhiều nhất, đóng góp nhiều nhất?


Và làm ơn search Google để đọc bài ông Viên Linh giải thích tại sao một tuần báo văn học là tuần báo Khởi Hành lại bán chạy như tôm tươi. Thành phần nào là nỗ lực chính?


Văn học miền Nam giống như cây đa tỏa ra nhiều nhánh với rất nhiều rễ. Rễ lớn rễ nhỏ. Rễ con rễ già. Rễ nào cũng quan trọng.


Có điều làm sao để bảo vệ, giữ gìn cây đa?


Như cây đa trong văn Võ Phiến. Từ ngày ông bỏ quê nhà vào Saigon lo chuyện mần ăn cũng như sống và viết, ông đã để lại cây đa ấy cho bọn trẻ chúng tôi. Con đường qua Phù Cát, Phù Mỹ, Phù Cũ, rồi Lại Giang, cây đa nằm trơ trọi bên kia cầu buồn bã vì nhớ ông. Trời ơi, VC đặt súng nặng từ bên kia bờ. Chiếm lại cây đa quả khó khăn. Hết đơn vị này đến đơn vị khác rụng. Bọn tôi phải vượt sông trong đêm, ngậm dao găm, hờm hờm lựu đạn, nghi binh để địch khai hỏa mới biết chỗ nào đặt súng, rồi ào vào thanh toán chốt…


Sáng ra, cây đa chiếm lại. Tự hỏi ông Võ Phiến chắc mừng… Sau đó, đơn vị lại được tăng phái nhổ các gốc khác, và bị thiệt hại nặng.


Ngày xưa, đọc văn Võ Phiến, hình ảnh cây đa dưới ngòi bút của ông tuyệt vời. Nhưng đọc chẳng rung cảm bằng lúc thấy lại nó, được ngồi dưới tàn lá, trên thân vẫn còn dấu vết lỗ đạn chi chít. Ngồi gác súng và lấy giấy ra viết vội. Trên trời nghe tiếng trực thăng. Mặt trời sắp đáp xuống để trao huy chương. Mặc. Cứ viết. Viết về đêm vượt sông. Viết về cây đa tái chiếm. Viết về nỗi vui mừng khi được ngồi lại dưới những nhánh dây chằng chịt. Nhà văn Võ Phiến chỉ kể lại kỷ niệm, hoài niệm đẹp. Còn tôi thì khác, kể lại niềm vui:

(…)


Cây đa. Có mặt khi nào nhỉ

Có phải nơi này là quê hương

Có phải mỗi con người trôi dạt

Cất trong tim: bóng mát thiên đường


Cây đa. Vươn giữa trời bi lụy

Những thổ thần hoang lạnh lư nhang

Lửa cháy Trường Lưu, đò đã chặn

Chị ra sông, ơi ới đoạn trường


Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất

Như tấm lòng người với Bồng Sơn

Đa bám làng, tôi đi bám đất

Đất và làng, thương quá quê hương…

Sự khác nhau giữa một tác giả thời 1954-1975 và 1963-1975 là thế đấy. Một đằng quay mặt với lịch sử. Một đằng bị bầm dập bởi lịch sử. Không phải chỉ chữ nghĩa không thôi mà còn cả máu lệ hòa nhập vào chữ nghĩa nữa.


Nguyễn Lệ Uyên: Anh Trần Hoài Thư chỉ mới đề cập sự khác nhau về những hoài niệm và thực tế giữa hai thế hệ, giữa thời bình và thời chiến. Tôi nghĩ, sự khác nhau không chỉ dành riêng cho một phía, ở một cái lõi của cuộc sống mà hơn thế, một bên bị ném vãi ra ngoài đời trầy trụa, bầm dập và một bên thì nhìn sự vật bên ngoài bằng những rung cảm trong khung cửa kính an toàn, có thể là có thật, nhưng mức độ không sâu bằng.


Ví dụ, trong truyện ngắn Hai đứa trẻ một cây cầu của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, cũng viết về chiến tranh đấy, cũng có nỗi sợ hãi, cũng bom đạn vãi ra như trấu ở hai bên đầu cầu, ở đó có hai đứa trẻ con ở hai phía lằn đạn, và gánh lấy thảm họa do cha ông chúng gieo xuống. Đọc xong ta cũng cảm động, cũng thấy xót xa. Nhưng cũng viết về chiến tranh, dưới cái nhìn khác, cũng trong thời chiến 63-75, dù không trực tiếp tham gia, chỉ đứng bên lề nhưng hai truyện ngắn Bão KhôTiếng hát của người gác cầu của Y Uyên thì mức độ nặng hơn nhiều về mọi mặt của ý nghĩa, của sự chuyển tải, những dằn vặt, xót xa, đau đớn trong cái tầm thường nhất, chứ không cần phải gào thét, phẫn nộ, cũng không lên án do bên nào gây ra, không có một tiếng súng nổ. Y Uyên chỉ phơi bày mặt trái của chiến tranh, như một con cá ươn thối được xào nấu, bày ra trên đĩa. Sự khác nhau này phải chăng là do hoàn cảnh xã hội nó thế, nó đẩy lớp trẻ tới chỗ tận cùng của ranh giới bi thương? Và còn đó những tác phẩm của Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Trang Châu, Ngô Thế Vinh…


Những tác giả thời chiến này, anh Lữ Quỳnh luôn ray rứt rằng “tại sao họ ít được nhắc tới” và như vậy chỉ có những Mai Thảo, Mặc Đỗ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyên Sa… là xứng đáng đại diện tiêu biểu cho văn học miền Nam? Tôi nghĩ họ, những nhà văn trẻ mang chiến tranh từ chiến trường vào trang giấy là họ đã làm tròn thiên chức của người cầm bút rồi. Đâu cần các nhà phê bình biên khảo để mắt. Tôi nhớ lán mán Viên Linh viết ở đâu đó một câu nhận xét về Y Uyên mà cho tới giờ tôi thấy chính xác, mặc dù ông ít khen ai bao giờ: “Y Uyên là nhà văn viết về chiến tranh hay nhất mà tôi đã từng đọc”.


Anh Lữ Quỳnh băn khoăn: “… chúng ta, nhất là những nhà phê bình (mà hầu như thời gian qua vắng bóng) nên tìm hiểu để thấy giá trị đích thực, một cách công tâm và công bằng cho một thời kỳ văn học máu lửa của dân tộc”. Đúng là các nhà phê bình hình như ít quan tâm đến thời kỳ máu lửa này thật. Tại sao? Tôi nghĩ, dấu mốc 30/4 là thảm họa cho cả dân tộc. Các nhà văn trẻ trong thời kỳ này bị cái biến cố kia “đè bẹp”: Tù đày, vượt biển, kinh tế mới. Những người may mắn thoát được thì phải thích nghi với xã hội mới, những người ở lại phải tìm đủ trăm phương nghìn kế mưu sinh. Phe “thắng cuộc” thì luôn tìm cách truy bức dẫn tới hầu hết các nhà văn miền Nam “bị mắc kẹt” phải xếp xó giấy bút, nhường chỗ cho cái bao tử của biết bao con người trong gia đình. Dòng văn học đang rực sáng bỗng dưng tắt phụt, đột ngột, không đủ thời gian để công bố các tác phẩm của họ. Nhưng tôi nghĩ, những gì họ để lại là rất đáng trân trọng, góp phần làm sáng lóa, rực rỡ dòng văn học 63-75.


Thêm một chi tiết, khi viết 2 tập Trang sách và những giấc mơ bay, có vài người hỏi tại sao không thấy nhắc đến các nhà văn nữ, sao không viết về những Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… trong đó? Vâng, sách báo viết đầy nhẫy cả ra rồi, các nhà phê bình văn học đã nói nhiều rồi; tôi thọc bút thêm vào có được tích sự gì với độc giả? Tôi chọn những Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Lâm Hảo Dũng, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Hoài Thư, Luân Hoán… bởi họ cùng thế hệ với tôi, bị lịch sử ném vào bãi rác! Tôi chia sẻ cùng các tác phẩm của họ, có thể nó (tác phẩm) chưa có chỗ trong các tập biên khảo, phê bình văn học, nhưng những dòng chữ của họ thì lồng lộng khói trời chinh chiến. Họ xứng đáng được tôn vinh, trân trọng… Tôi trân trọng ngay cả những người chưa tên tuổi, như bài thơ của một người lính biệt kích vô danh nào đó, có tựa “Gửi em… cô gái Bình Long”, tôi đọc đâu đó, có chất giọng hào sảng, kinh khoái đến vô cùng:

“Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc

Đội pháo trên đầu như đội mưa

Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc

Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.


Trong tiếng đạn reo mù khói trận

Bỗng gặp em, cô giáo như mơ

Em ngồi rũ tóc trong hầm tối

Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ”…

Có nhà phê bình văn học nào đi sao lục những bài thơ của những người lính vô danh này để đưa vào các tập biên khảo của họ chưa? Chắc chắn rằng chưa. Nhưng tôi tin bài thơ sẽ sống mãi: Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ!?


Luân Hoán: Trong một lần điện đàm cùng nhà biên khảo Nguyễn Văn Lục, em giáo sư Nguyễn Văn Trung, anh Lục có than nhiều người nghiên cứu về Văn Học Miền Nam đã bỏ sót đoạn cuối của chiều dài giai đoạn sinh hoạt này. Tôi đồng tình cùng anh Lục, vì đã nhận ra điều này từ lâu, vốn không chuyên phát biểu và cũng chẳng có cơ hội để vu vơ đôi lời bày tỏ. Nhưng điều chính là tôi thật sự không muốn nhắc đến sự bỏ sót trên, bởi giản dị, tôi có mặt ít nhiều trong giai đoạn đó. Nêu lên có vẻ như muốn nhắc khéo đến mình, không được tốt mấy.


Theo tôi, sự thiếu sót này có thể từ nguồn tài liệu thiếu sót bởi dòng văn học có thể gọi là “dấn thân” của miền Nam trước 1975 vốn khá rời rạc, khoanh vùng, chưa tạo được vóc dáng phương phi cần có, dù nó hiện hữu thật. Một lý do khác, người nhắc lại chuyện xưa hình như thật tình muốn lơ, không nhắc đến. Đây có lẽ là trường hợp của những tay viết còn tại nội, ngại ngùng và có chút thiếu lòng. Lê Vĩnh Thọ, được kể là một nhà thơ rất nhân bản, đóng góp rất nhiều cho dòng văn học này, anh vẫn đang tồn tại, nhưng gần như tôi chưa thấy ai nhắc đến bao giờ. Thật sự những người viết trong nước nhiều khi chỉ cần nhắc đến một cái tên của một người của 1975 đã bị gạch rồi, như trường hợp Hoàng Lộc và tôi. Chúng ta vẫn còn rất nặng nề trong chia cách, đố kỵ. Cái lòng văn học nghệ thuật vẫn chỉ nông nông vậy thôi. Sau 75, cũng có vài công trình cho giai đoạn trước 75, tại miền Nam, nhưng vẫn chưa thoát ra nổi cái vòng khoanh địa lý trong văn hóa nghệ thuật.


Phạm Văn Nhàn: Theo tôi nhận xét, tôi đồng thuận với câu hỏi của nhà văn Lữ Quỳnh; vì nhận thấy trong sinh hoạt văn học hôm nay, nhất là ở hải ngoại. Nhiều nhà diễn giả trong những buổi hội thảo hôm nay, họ ít nói đến hay phủ nhận tính sáng tác của những người lính vừa cầm súng vừa sáng tác ở ngoài mặt trận. Tại sao vậy? Có lẽ, theo tôi, vì họ ít có tác phẩm chăng? Có cần thiết như thế không. Mà họ thường chỉ đề cao đến những nhà văn, nhà thơ từ 1954-1963 cũng là những quân nhân, nhưng họ có điều kiện hơn là ở thành phố yên ổn để ngồi viết. Họ có điều kiện hơn khi tiếp xúc với nhà xuất bản, báo chí. Tôi không muốn nêu tên. Nhưng chắc là các bạn đều biết tôi muốn nói đến ai.


Còn những người lính cầm bút ở ngoài mặt trận thì sao? Ta hãy nghe nhà văn Hoàng Ngọc Hiển, một người lính đóng ở An Lộc, có nhiều truyện ngắn đi trên Khởi Hành, Văn đã viết trên TQBT số 62: “thú thật, lúc đó, tôi lo sống trước đã, lo làm tròn trách nhiệm một người lính chiến trước đã…” Còn Trần Hoài Thư thì sao? Tôi biết: anh viết bất cứ lúc nào, khi chờ trực thăng bốc quân, viết ở tiền đồn, viết ở quán cà phê nếu có dịp về phố, viết trong quân y viện khi bị thương… và, còn nhiều người lính viết văn nữa. Vì từ năm 1963 chiến tranh ở miền Nam như một cơn lốc xoáy cuốn hầu hết tất cả anh em chúng tôi vào quân trường rồi ra chiến trường thì làm sao họ có nhiều tác phẩm như những ông nhà văn lính ở hậu phương yên ổn mà ngồi viết?


Và, buồn thay, những tác phẩm của họ hình như ít ai nói đến. Ví dụ như Nguyễn Bắc Sơn (Chiến Tranh Việt Nam và Tôi). Ví dụ như Linh Phương (Kỷ Vật Cho Em) và còn nhiều người lính viết văn khác nữa. Họ là những người trực tiếp ngoài mặt trận, chưa có một giây phút yên ổn, cận kề với cái chết thế mà họ vẫn viết. Viết lên thân phận của chính họ. Viết lên nỗi thống khổ của người dân. Viết lên nỗi dằn vặt của chính họ, của những người dân bị ảnh hưởng giữa hai ý thức hệ cộng sản quốc gia trong những vùng xôi đậu. Và, họ mơ đến… hòa bình.


Cho nên cũng vì mơ đến hòa bình, có người gọi họ là những nhà văn, nhà thơ phản chiến! Không. Tôi khẳng định như vậy. Họ vẫn viết và vẫn làm nhiệm vụ, như nhà văn Hoàng Ngọc Hiển đã viết: lo làm tròn trách nhiệm một người lính chiến trước đã.


Phải nói những tác phẩm của họ từ 1963 -1975 đã xuất hiện nhiều trên những tạp chí một thời lừng danh ở Sài Gòn. Thế mà, hôm nay, những cây viết trẻ ấy gần như không ai nhắc đến qua những lần hội thảo văn học. Họ chỉ nhắc đến những cây viết cổ thụ có điều kiện ở Sài Gòn. Cho nên, để góp ý một phần nhỏ thôi trong chủ đề người lính viết văn đã góp mặt làm nên một nền văn học đích thực của miền Nam trong 20 năm. Trả lại cho họ với những tác phẩm (dù ít) nhưng đã góp phần tạo nên một nền văn học đích thực của một miền Nam. Mà trong luồng văn học này, nhà văn Trần Hoài Thư còn nói đến “tính nhân bản” trong từng tác phẩm. Họ viết nhưng lòng họ không hận thù, không khát máu. Họ viết với tấm lòng nhân hậu của một người lính cầm súng ngoài mặt trận.


Tôi xin góp mặt trong hai câu hỏi của Lữ Quỳnh và Trần Hoài Thư. Hãy trả lại cho những người lính viết văn trong thời chiến cái giá trị đích thực của họ trong thời khói lửa chiến tranh.


Trần Doãn Nho: Riêng cá nhân tôi, trong bài thuyết trình tại tòa soạn nhật báo Người Việt, tôi đã đề cập đến khá nhiều những người lính viết văn. Tôi trích văn của Trần Hoài Thư, Lê Văn Thiện, Y Uyên, Trần Dzạ Lữ, Trang Châu, Thảo Trường. Và nhắc đến (nhưng không thể trích dẫn, vì giới hạn của một bài viết) những người lính Lê Bá Lăng, Lữ Quỳnh, Kinh Dương Vương, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Hồ Minh Dũng, Lương Thái Sỹ, Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Chí Kham, Nguyễn Nho Sa Mạc, Mang Viên Long, Vương Thanh…


Trần Hoài Thư: Anh Lữ Quỳnh cho rằng “Tại sao những tác giả thời chiến không được nhắc đến, có phải vì tác phẩm của họ chưa đủ tầm cỡ để có mặt trong dòng văn học Miền Nam 54-75? Như đã có một số ý kiến. Tôi thấy câu hỏi của Nguyễn Vy Khanh rất hay, nhưng ít người trả lời vào vấn đề”. Câu hỏi tôi nêu ra cũng thế.


– Thật sự tôi không bận tâm về cuộc thảo luận tại California. Nếu mà kể thì có biết bao nhiêu sự thiếu sót không được đề cập như: mảng dịch, mảng biên khảo, mảng triết học, mảng kaki…


Những câu hỏi và trả lời ở Bàn Tròn qua Email này, chứng tỏ là các anh ít bận tâm đến chuyện California…


Việc không chú ý này có những lý do. Thứ nhất là chúng ta đã có rồi. Nó đến từ độc giả chớ không phải nhà nhận định hay phê bình. Nó đến từ một sự hãnh diện: cho hơn là nhận. Không cần đền đáp.


Tôi đưa ra ý nghĩ này qua ý Cây đa của Võ Phiến ở trong một câu hỏi: Tại sao chúng ta không tự thả hỏa châu trong cõi tối đen của văn học miền Nam sau 1975 mà lại nhờ người khác?


Trần Doãn Nho: Trong tạp chí Văn hồi đó, anh Trần Phong Giao đặt tên cho một số anh em là “Những cây bút trẻ” như Mường Mán, Trần Hoài Thư, Yên My, Lê Văn Thiện, Hồ Minh Dũng, Lê Bá Lăng, Nguyễn Lệ Uyên, Lương Thái Sỹ, Kinh Dương Vương, Thành Tôn, Trần Dzạ Lữ, Trần Doãn Nho, Cao Thoại Châu… Thỉnh thoảng, Văn cho ra một số đặc biệt về những cây bút trẻ. Thực ra, không chỉ ở Văn, mà ở Bách Khoa, Khởi Hành hay Vấn Đề… cũng có những cây bút trẻ.


Thế nào là “Những cây bút trẻ”? Theo tôi, những cây bút trẻ là những cây bút xuất hiện từ thập niên 1964-1974, lứa sau Sáng Tạo và sau những cây bút thành danh khác trên Văn Đàn như Viên Linh, Nguyễn Xuân Hoàng, tuổi đời cỡ từ 25 đến ngoài 30 tính đến tháng 4/1975.


Câu hỏi của tôi là: Những cây bút trẻ này đóng góp như thế nào trong 20 năm VHMN? (Có thể chi tiết hơn: diện mạo, thành phần, tác phẩm, khuynh hướng hay văn phong…) Có thể mở rộng ra; Thơ tình lớp trẻ, thơ, văn chiến tranh…


Trần Hoài Thư: Sáng Tạo bị bức tử vào năm 1961, mặc dù tạp chí hô hào đổi mới văn hóa, đòi thanh toán với quá khứ, cố gắng mang ý thức chống Cộng vào văn chương, nhưng phải đầu hàng vì chế độ miền Nam bấy giờ là chế độ bảo thủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đến nỗi Mai Thảo phải gọi những kẻ chống đối ST là “bọn bảo thủ phản tiến hóa”. ST đã không tạo nên một ảnh hưởng nào, trừ tạo nên cái cớ mà miền Bắc dùng nó tấn công miền Nam về mặt trận văn hóa. Đó là chính sách thực dân kiểu mới, là âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ, là văn chương nô dịch, bởi vì ST có liên hệ đến Phòng thông tin Hoa Kỳ…


Nhìn vào những người có bài đóng góp cho ST về bộ môn thơ có tất cả 34 người. 34 người trong 5 năm!


Trong khi đó, từ năm 1964 đến năm 1974 con số ấy khủng khiếp. Riêng chỉ bộ thơ miền Nam trong thời chiến, chúng tôi sưu tập con số đã lên tới 200. Đó là chưa kể biết bao nhà thơ thiếu sót, vì sưu tập không hết, vì đăng trên nhật báo, tuần báo… 200 tác giả có bài đăng trên những tạp chí thời danh đã nói lên một trận bão đánh đổ cái nền văn học tháp ngà. Văn số 8 là bia mộ cáo chung loại văn chương hoang tưởng, dài lê thê, một bài thơ ba bốn trang giấy Sáng Tạo, với chủ đề “Thơ Văn Có Lửa”. Dương Nghiễm Mậu là nhà văn duy nhất từ Sáng Tạo còn viết, và viết dữ dội hơn bao giờ. Lý do ông là phóng viên chiến trường. Ông đi và viết. Thanh Tâm Tuyền thì bế tắc, và thú nhận sự bế tắc này qua bài Âm Bản đăng trên Khởi Hành số 52. Mặc Đỗ bị chống đối dữ dội bởi giới trẻ nhập cuộc khi ông làm phán quan qua bài “Mặc Cảm Ka Ki” được đăng trên Khởi Hành. Nguyên Sa thú nhận là mình có lỗi, và những bài thơ tình nổi tiếng của ông không xứng đáng sau khi ông bị động viên khoác bộ đồng phục.


Văn chương thành thị bắt đầu di tản về các tiền dồn, các thị trấn heo hút, các núi rừng, đầm lầy, các sông biển kênh rạch. Hoài Lữ – Lữ Đắc Quảng, nhà thơ trẻ có thi tập Mắt Cỏ được báo Mai giới thiệu nồng nhiệt qua hai trang báo khổ lớn, có lẽ là nhà thơ trẻ đầu tiên tử trận vào năm 1964 tại đồn Bình Chánh ở Gia Định. Nhưng tiếng nổ, và tiếng kêu, tiếng gào ở ngoài vòng đai Saigon chắc gì có ai nghe. Không, vẫn có người nghe. Đó là các ông Lê Ngộ Châu, Trần Phong Giao, Mai Thảo, Viên Linh. Họ nghe, và họ trân trọng. Họ gọi chúng tôi là những người viết trẻ, những cây bút trẻ. Họ không gọi chúng tôi là nhà văn. Bởi nhà văn là người viết chuyên nghiệp. Là một nghề như mọi nghề. Còn người viết thì khác. Một tay cầm súng và một tay cầm viết. Vừa đánh giặc vừa viết.


Vâng, thời ấy chúng tôi viết rất nhiều. Bởi vì văn chương chữ nghĩa như là niềm cứu rỗi.


Không viết thì chúng tôi sống bằng gì bây giờ?


Bởi viết là một nhu cầu. Ngay cả bất cứ người lính bình thường, cũng tìm niềm vui qua giấy và viết. Viết để mang nỗi nhớ nhung về người thân, và để vỗ về an ủi người yêu, người mẹ xa cách. Viết để dặn dò. Ngay cả người lính không biết chữ cũng nhờ “ông thầy” viết giùm để mai có trực thăng đến và mang về hậu cứ để nơi đây chuyển giùm.


 

Viết trên đường giải vây An Lộc. Hình chụp người lính

biệt kích dù đang viết nhật ký hành quân khi dừng quân

tại Suối Rô cách An Lộc 4 cây số. Nguồn: Internet


Và suốt cả 13 năm, những bài văn/bài thơ viết trong hoàn cảnh, và điều kiện như thế đã tràn ngập trên các tạp chí như Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Thời Tập, Bách Khoa, Vấn Đề, Văn Học, Trình Bầy v.v… Thử lật bất cứ một tạp chí nào cũng thấy bút hiệu của chúng tôi. Chúng tôi không có nhóm. Chúng tôi không đầu quân vào một ban chủ trương. Chúng tôi chỉ biết viết. Và Viết. Sống để viết.


Rõ ràng chúng tôi đã mang văn học chiến tranh về SG. Chúng tôi đã bồi dựng nó, giúp các tờ báo ấy được thêm độc giả, sống vững, sống mạnh.


Một ví dụ là tuần báo Khởi Hành. Đây là một tuần báo văn học duy nhất của miền Nam, có số lượng phát hành khủng khiếp. Có khi lên đến 10 ngàn số. Mà hầu hết người viết cũng như người đọc là quân nhân.


Có khi bài chưa lên khuôn, hay bài chưa kịp thấy, thì tác giả tử trận. Đó là trường hợp nhà văn Doãn Dân. Mơ ước của anh là thấy đứa con tinh thần thứ hai “Bàn tay cho Yến” được ra đời, thì anh tử trận trước khi tác phẩm hoàn thành. Mà nếu giả dụ anh có thấy đứa con của anh, chắc gì anh vui. Bởi nhan đề mà anh chọn là “Bàn Tay cho Yến” đã bị đổi lại thành “Tiếng gọi thầm”(! ) và cái truyện BTCY cũng bị rút ra khỏi tác phẩm! (Xin đọc tạp chí Văn số đặc biệt về Doãn Dân, thời nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm thơ ký tòa soạn)


Vâng, ngày chiến tranh, người lính viết văn: anh luôn luôn ở về hướng mặt trời lặn. Thường thường lúc mặt trời lặn là lúc đẹp nhất. Triền đồi cỏ tranh một màu vàng kim, và cuối trời hực lên một màu đỏ lửa. Chỉ một thời gian ngắn ngủi, để rồi bóng đêm lại chụp xuống, và anh lại bắt đầu bằng những bất trắc mới, để thần kinh anh như điên khùng, vì trăm ngàn quả pháo, hay tiếng nổ của bom yểm trợ, hay những biển người cuồng điên ngoài kia phòng tuyến…


Và vì mặt trời lặn, nên người thường tình không thấy, không nhận ra. Dĩ nhiên.


Nguyễn Lệ Uyên: Anh Trần Doãn Nho đặt vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng hóa ra quá rộng khi anh mở thêm ngoặc đơn: “Những cây bút trẻ này đóng góp như thế nào trong 20 năm VHMN? (Có thể chi tiết hơn: diện mạo, thành phần, tác phẩm, khuynh hướng hay văn phong…). Có thể mở rộng ra; Thơ tình lớp trẻ, thơ, văn chiến tranh…”. Hy vọng, trong một dịp khác chúng ta sẽ có thì giờ để bàn rộng về diện mạo, thành phần, tác phẩm, khuynh hướng… hay thơ tình, văn thơ chiến tranh. Còn vắn tắt, thì gói gọn một câu: Những nhà văn trẻ miền Nam dầm mình trong cuộc chiến tương tàn, đã đóng góp cho dòng văn học miền Nam, một gia tài đồ sộ mà chưa có ai khai thác. Trước đây, Cao Huy Khanh, trên bãi tập bắn ở quân trường Thủ Đức, có tâm sự với tôi rằng: Sau loạt bài Sơ thảo văn học Việt Nam, khi chiến tranh chấm dứt moa sẽ tiếp tục về những nhà văn trẻ trưởng thành trong bom đạn… Tuy vậy, CHK không tiếp tục những ấp ủ, âu cũng là sự thiệt thòi lớn đối với các nhà văn trẻ trưởng thành trong binh lửa!


Nguyễn Vy Khanh: Khi nghiên cứu về văn-học miền Nam 1954-1975 có những cách nhìn và quan điểm khác nhau và còn tùy phe nhóm khiến có những kết luận tôi thấy vội vàng và đầy thiên kiến. Thời 1954-1975 không phải chỉ có Nguyên Sa, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền,… những vị này thường tự xem hoặc được “xem” như đại diện cho cả nền văn-học cả miền, ví dụ Thanh Tâm Tuyền khi lớn tiếng Tôi Không Còn Cô Độc (và thơ tiễn Quách Thoại) là nói với nhau trong cùng nhóm, và trong cuộc “tranh luận” về thơ tự do đã trịch thượng không trả lời những chống đối hoặc trao đổi,…


Theo tôi, thời đầu 1954-1960 (cố gắng thêm những năm 1968-72 với Nghệ Thuật, Vấn Đề,…) đã là thời của họ, của những Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại, nhưng từ khi cuộc chiến mới (tự vệ) chống Cộng sản lan rộng ngày càng mãnh liệt, tàn bạo, nhiều cây viết trẻ đã xuất hiện và được độc giả đón nhận cũng như ảnh hưởng ít nhiều đến các phong trào xã hội và chính trị ở miền Nam – Chúng tôi đã từng ghi nhận hiện tượng này từ năm 2000 trên tập san Chủ Đề và xuất bản năm 2004, trên Thư Quán Bản Thảo [nhiều năm trước – mà tôi đang xa nhà không xem lại được, và trong số 56] cũng như đang cập nhật và khai triển thêm trong biên khảo về Văn-học Miền Nam.


Như vậy, “mảng” văn-học của các nhà văn thơ trẻ là có thật, đa dạng, có giá trị và nội dung riêng biệt, đã là một phần quan trọng của văn-học miền Nam 1954-1975: lãng mạn, tình cảm, có, mà chiến tranh, “kêu thương” cũng có, với những văn phong đặc biệt, cá biệt,… không hề thấy ở giai đoạn trước đó, ở những tác giả “trẻ” thời đất nước mới phân chia ở vĩ tuyến 17. Sự “bỏ quên” này (gần như) là thật và tái xuất ở hải ngoại: “chiếc chiếu” của một số vị được lau chùi đánh bóng verni lại khi ra ngoài nước sau tháng Tư 1975 nay đã nát rồi mà như vẫn khư khư độc quyền với nhau, và điều đáng tiếc là có những người trẻ mới thành danh ở hải ngoại lại chạy theo hơi hướm của những người đã từng nổi danh một thời!


Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà văn Trần Doãn Nho về những đóng góp như thế nào của các nhà văn được ông Trần Phong Giao gọi là “Những Cây Bút Trẻ”. Thỉnh thoảng tạp chí Văn lại cho ra một số đặc biệt về họ, và có lẽ thường liên hệ với chủ đề “Thơ Văn Có Lửa”. Những người gọi là trẻ đó cũng chính là chung cho thế hệ đi vào cuộc chiến trong giai đoạn khốc liệt với nửa triệu quân Mỹ tham chiến tại Miền Nam Việt Nam. Văn thơ của họ ít nhiều mang nét hiện thực của chiến tranh tàn khốc mà nhà văn Trần Hoài Thư nay đã cố gắng thu thập cho xuất hiện lại tại Hoa Kỳ trong các bộ sách rất dầy về văn thơ thời chiến như đã nói ở đoạn trên. Đa phần văn thơ trong đó chắc chắn mang nhiều nét hiện thực chiến tranh và xã hội lầm than trong cuộc chiến. Một số truyện ngắn đã được sáng tác ngay lúc đi hành quân, lúc dừng quân chuẩn bị cho ngày mai có thể đụng trận. Họ e ngại cho ngày mai đó có thể không còn nữa trên cõi đời, nên không chừng họ đã viết cấp bách, ghi vội cảm nghĩ, do đó có thể không sâu lắng để lựa chọn từ ngữ hay cách phô diễn nhắm gây âm hưởng lớn như trong lời nhạc và nhạc điệu của các nhạc sĩ một thời gây xúc động cả một thế hệ trong chiến tranh.


Trần Doãn Nho: Nên chăng, TQBT dành riêng một số để chỉ thảo luận về “Những cây viết trẻ”? Trước hết, 1. Định danh: thế nào là “những cây bút trẻ” trong VHMN? 2. Liệt kê (trong điều kiện có thể) những nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo “trẻ”; 3. Các tạp chí họ cộng tác; 4. Các tác phẩm đã in (nếu có); 5. Các truyện ngắn hay thơ hay tiểu luận (nếu chưa in); 6. Các đề tài chính tìm thấy trong các tác phẩm của họ, chẳng hạn như: chiến tranh, tình yêu, xã hội…; 7. Nói một cách tổng quát, nhưng cây bút trẻ này KHÁC với “những cây bút không-trẻ” ở những điểm nào: về văn phong, nội dung, đề tài…8. Họ đã đóng góp cho VHMN như thế nào? Về số lượng? Về kỹ thuật? Về tính nhân bản?….


Kết luận:

Chủ đề cho cuộc thảo luận trên TQBT kỳ này chỉ là những vấn đề có tính gợi mở. Những ý kiến đóng góp của các nhà văn, nhà phê bình văn học đã nêu lên nhiều vấn đề trong dòng văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, đặc biệt là các nhà văn trẻ mà các nhà phê bình chưa thật sự quan tâm. Những ý kiến xoay quanh đề tài này chỉ mới đưa ra cái nhìn bao quát, chứ chưa thể đào xới sâu vào bên trong, bởi khuôn khổ tạp chí có hạn.


Các tác giả đóng góp ý kiến, mỗi người một hoàn cảnh, ở một thành phố, một quốc gia… cách xa nhau hàng chục ngàn cây số, nhưng với trách nhiệm của người cầm bút trước lịch sử văn học miền Nam đã cố gắng nêu lên những vấn đề có liên quan, những tồn nghi, một cách khách quan phần nào giúp cho độc giả có cái nhìn bao quát về nền văn học ở giai đoạn này


Hy vọng, trong một ngày không xa, với điều kiện có thể, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề theo những gợi ý của nhà văn Trần Doãn Nho.

Trân trọng cảm ơn các anh chị đã góp công sức tham gia. (TQBT)


Nguyễn Lệ Uyên điều hợp

(Nguồn: Thư Quán Bản Thảo, số 63 Tháng 2-2015)