10-10-2019 | VĂN HỌC

Tiễn Trần Tuấn Kiệt, nhớ chuyện viết văn làm báo

  VIÊN LINH


    Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt
   (Hình: Người Việt Bốn Phương)

Cầm bút viết về một nhà văn, nhà thơ cùng thời, cùng thế hệ với mình thật là khó, như tôi đang khởi sự viết về Trần Tuấn Kiệt vừa mất (1 Tháng Sáu, 1939 – 8 Tháng Mười, 2019).


Anh kém tôi một tuổi, và thường cùng lui tới một khúc đường Phạm Ngũ Lão như tôi. Anh tới tòa soạn tạp chí Phổ Thông đặt trong nhà in Thư Lâm Ấn Thư Quán, tôi cũng tới nhà in này nhưng ở phòng ngoài, nơi đặt tòa soạn tuần báo Nghệ Thuật. Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Nghệ Thuật do Mai Thảo.


Trần Tuấn Kiệt viết cho Phổ Thông từ đầu. Tôi làm thư ký tòa soạn Nghệ Thuật, vừa viết tin viết bài lại vừa trình bày trông coi in ấn, đó là tờ tuần báo văn học nghệ thuật in kỹ thuật offset đầu tiên tại miền Nam Việt Nam, là kỹ thuật in ấn tối tân nhất lúc bấy giờ.


Tạp chí Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ là chính xác; còn tuần báo Nghệ Thuật “do Mai Thảo” đứng tên chủ nhiệm chủ bút, nhưng thực sự tờ báo ấy không phải của Mai Thảo không thôi, mà có thể nói của năm người: Vũ Khắc Khoan, Phạm Đình Chương, Mai Thảo, Thanh Nam và ca sĩ Anh Ngọc Từ Ngọc Toản. Nơi trang nhất Mai Thảo đứng tên chủ nhiệm chủ bút, Thanh Nam đứng tên tổng thư ký, còn Từ Ngọc Toản (tên khai sinh của ca sĩ Anh Ngọc) đứng tên trị sự, quản lý.



    Quyển “Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, 1880-1965” của Trần Tuấn Kiệt
(Hình: quansachmuathu.vn)

Năm 1967, nhà thơ Trần Tuấn Kiệt miệt mài thực hiện một cuốn tổng thể nhan đề “Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, 1880-1965,” tức là 85 nhà thơ Việt Nam, khổ lớn và dày gần 1,200 trang. Trần Tuấn Kiệt đã hoàn tất một bộ sưu tập lịch sử. Phần nhận định và chọn thơ các tác giả cho thấy tấm lòng rộng mở của thi sĩ: ông chọn thơ cho hay, không phân biệt con người, trường phái, lập trường hay địa phương.


Thi sĩ và tác phẩm đầu tiên xuất hiện trong cuốn sách là Thượng Tân Thị, sinh năm 1880 và thi sĩ cuối cùng trong cuốn sách chính là tác giả Trần Tuấn Kiệt sinh năm 1939. Chỉ cần đọc qua mục lục cuốn sách dày cộm, ta thấy công trình đáng kể của ông. Ông không phân chia sách ra theo nhận định của mình hay theo khuynh hướng của các tác giả tác phẩm, mà theo dòng đời thực tại. Ta thấy như sau:


Phần I- Thi Ca Tiền Chiến. Trong phần này, từ trang 11 tới trang 408, ta thấy có 43 thi sĩ: Thượng Tân Thị, Phan Khôi, Tản Đà, Á Nam, Nhượng Tống, Tương Phố, Đông Xuyên, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Thế Lữ, Nam Trân, Tân Hiến, Vân Đài, Phan Văn Dật, Nguyễn Vỹ, Quách Tấn, Thái Can, Đoàn Phú Tứ, Trần Huyền Trân, Hàn Mặc Tử, Huy Thông. J. Lê Ba, Lan Sơn, Lưu Trọng Lư, Bàng Bá Lân, Phạm Đình Tân, Vũ Đình Liên, Thanh Tịnh, Nguyễn Nhược Pháp, Đỗ Huy Nhiệm, Đặng Đình Hồng, Nguyễn Đình Thư, Nguyễn Thị Manh Manh, Phan Thanh Phước, Xuân Tâm, Xuân Diệu, Ngân Giang, Thâm Tâm, Hồ Văn Hảo, Yến Lan, Huy Cận…


Trước khi đi vào những bài thơ chọn lọc, có in tiểu sử của từng tác giả, tuy không kỹ càng như loại sách biên khảo, cũng không có hình ảnh, không in bằng lối chữ riêng biệt mà tùy theo từng người mà tiểu sử và nhận xét khác biệt nhau, cho thấy Trần Tuấn Kiệt tùy hứng và tùy hoàn cảnh khi thực hiện cuốn sách.


Phần II- Thời Chiến Tranh, từ trang 451 tới trang 714 in thơ của các thi sĩ mà Trần Tuấn Kiệt xếp vào thời hiện chiến, hay thời chiến tranh. Những người này là Lam Giang, Việt Châu, Ái Lan, Hồ Thấu, Ninh Huy, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Tất Vinh, Thẩm Thệ Hà, Đỗ Hữu, Hoàng Hoa, Đằng Phương, Văn Cao, Chim Xanh, Vũ Anh Khanh, Trúc Khanh, T.P., Khổng Dương, Thanh Hữu, Trần Dần, Tạ Hữu Thiện, Phùng Quán, Hữu Loan, Mộc Lan Châu, Thế Phong, Nguyễn Văn Cổn.


Chỉ có 26 nhà thơ trong “thời chiến tranh” theo chọn lựa của Trần Tuấn Kiệt. Độc giả chắc chắn sẽ cho rằng con số đó chưa thể là con số sau cùng, nhất là khi biết rằng khi bộ sách “Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, 1880-1965” của Trấn Tuấn Kiệt được phát hành vào năm 1967, lúc ấy chiến tranh Việt Nam từ thời chia cắt 1954 còn đang tiếp diễn. Có lẽ chính tác giả nghĩ như thế chăng? Không phải, vì ngay những chương sau là phần thứ ba của cuốn sách, nhan đề “thời hậu chiến.” Nếu thời chiến tranh còn đang tiếp diễn thì chưa thể có thời hậu chiến. Ta hãy xem thời hậu chiến của cuốn sách ra sao rồi sẽ bàn tiếp.


Trong hai phần sơ lược như trên, chúng ta đếm được 43+26 = 69 thi sĩ, quá ít so với một thời gian quá dài, tuy nhiên với sức người, một tác giả 30 tuổi làm được như thế trong một thời gian ngắn là đã quá sức.


Trần Tuấn Kiệt sinh năm 1939, làm thơ ký là Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, lúc giao cuốn “Thi Ca Việt Nam Hiện Đại” cho nhà Khai Trí, 1965, anh mới 28 tuổi. Anh ghé tòa soạn Nghệ Thuật trên đường Phạm Ngũ Lão hầu như mỗi ngày, nơi đó còn tòa soạn vài báo khác như Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ.

Viên Linh

(Nguồn: nguoi-viet.com