Nhà văn Trần Hoài Thư và vợ
Chị Nguyễn Ngọc Yến
Y. HÁT HAY. BẠN BÈ CỦA Y. NÓI VỚI TÔI, anh may mắn lắm đấy. Vâng, Y. chỉ hát cho mình tôi nghe. Ngày chiến tranh. Trong những ngày phép ngắn ngủi từ rừng núi xuống đồng bằng. Và trong những ngày xa xứ, trên những xa lộ đêm, trong những lần xuôi ngược nhằm sưu tập Di sản Văn chương miền Nam ở Cornell. Những lần như thế, Y. giúp tôi lái xe. Thấy tôi khó ngủ, nên nàng luôn luôn nói: Để em hát cho mình ngủ. Và suốt dặm dài khuya khoắt, thỉnh thoảng chỉ có vầng trăng đuổi theo, Y. hát liên tu bất tận hết bài này qua bài khác:
Còn lại hai vợ chồng già. Xa lộ
Đi về, buồn ngủ, đường lại xa
Vợ tiếp chồng
lái cho chồng ngủ
Gió lộng ngoài
gió lộng u u
Mắt ta vẫn ráo, sao không ngủ
Xe vẫn lao vào chốn tối đen
Trong cõi vô cùng yên lặng phủ
Em cất lời, bài hát quê hương
Xe vẫn lăn đều không than thở
Lời ca vẫn tiếp tục lênh đênh
Đêm vẫn đêm dài đêm không ngủ
Người vẫn đi về cùng cõi mông mênh
(Ngày vàng, Ô Cửa, 2003)
Rồi đến thời cách ly, khi sự thăm viếng chỉ giới hạn 15 phút, 2 tuần 1 lần, khi mà hệ thống thần kinh bị xáo trộn, vậy mà vẫn hát cho tôi nghe trong lần viếng thăm mới đây... Khi tôi hỏi: Mình nhớ bài hát nào không, hát cho tôi nghe đi. Hỏi để mà hỏi, nhưng không tin Y. nhớ. Vậy mà Y. hát. Giọng hát khàn đục, như thể đọc bài học thuộc lòng, hay bài kinh tụng. Y. say sưa hát. Ngay cả lúc người trợ tá đẩy chiếc xe lăn vào cửa vì hết giờ, Y. vẫn còn ngoái đầu lại tiếp tục hát:
Ai qua miền quê binh khói,
Nhắn giúp rằng nơi xa xôi:
Tôi vẫn mơ lùm tre xanh ngát
Tim sắt xe cảnh xưa hoang tàn
Bao nhiêu ngày vui thơ ấu
Bao nhiêu lều tranh yêu dấu
Theo khói binh lều tan tre nát
Theo khói binh làng quê héo tàn
Y. đã sống lại rồi. Tôi cũng sống lại rồi. Chúng tôi vẫn nương tựa nhau bằng tiếng hát. Tiếng hát ngày nào vỗ về cùng cõi lênh đênh của tôi, hay ru tôi vào cơn huyễn mộng, thì bây giờ tiếng hát làm chứng cho một sự hồi sinh. Màn trí nhớ không xám hắn, mà lóe lên ánh bạc lóng lánh của lời ca. Trái tim già của tôi cảm động biết chừng nào.
Tiếng hát ấy đã đi vào trong cõi văn chương của tôi.
Dưới đây là một đoạn trích từ một truyện trên tạp chí Văn Học, trước 1975 về tiếng hát:
....
Một đàn chim vừa bay qua, về hướng Tây. Những cánh vỗ nhịp nhàng in đậm trên nền trời đầy ráng vàng. Vài người gánh lúa đang trở về trên đường đê. Chàng nói với vợ:
“Hát cho anh nghe bài Nương Chiều đi em.”
“Anh muốn nghe em hát sao?
Rồi nàng bắt đầu cất tiếng. Đôi mắt nàng nhắm lại. Gương mặt nàng trông thật trang nghiêm và thành khẩn. Chiều ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương khoai. Trâu bò về giục mõ xa xôi. Ơi chiều! Chiều ơi!... Nàng dựa vào vai chàng đắm chìm trong tiếng hát. Thời gian như ngừng lại. Không gian như ngừng lại. Một cánh cò ở đầu vụt bay lên. Và phía xa, những bóng người gánh lúa đang qua chiếc cầu khỉ. Một con ếch nhảy xuống rạch, tiếng kêu bõm. “Chiều ơi... Chiều ơi...Chiều ơi...” Chàng châm điếu thuốc. Những sợi tóc của nàng mơn man trên má chàng. Chàng nghe cả hơi thở của nàng nữa.
Chiều ơi. Cảm tạ đất trời. Cảm tạ người nhạc sĩ. Cảm tạ em. Hạnh phúc trong tầm tay, phải không em. Tại sao cứ mơ những điều hoang tưởng. Tiếng hát của nàng cao. Chưa bao giờ chàng lại nghe nàng hát tuyệt vời như thế.
“Em hát hay quá! Chưa bao giờ anh nghe em hát hay như lần này.”
“Như vậy anh thưởng cho em cái gì?”
Chàng nắm bàn tay vợ, khẽ bóp nhẹ. Hai người không nói một đỗi. Họ đang cố hưởng những gì họ đã có. Nhưng sự thật lại trở về. Bởi vì đôi mắt của nàng lại rớm lệ.
“Em lại khóc nữa.”
Chàng nói.
“Ngày mai anh đi. Biết khi nào anh mới trở về cùng em. Cùng con.”
Rồi nàng lấy bàn tay chàng đặt trên bụng.
“Anh sẽ về. Em tin anh đi. Anh sẽ về mà. Thế nào chiến tranh cũng chấm dứt.”
“Anh tin như thế ư?”
“Vâng. Anh tin. Người ta đã ngồi vào bàn hội nghị rồi.”
Chàng nói, nhưng rõ ràng lòng chàng cảm thấy không ổn. Những lời đầy cay đắng của thằng bạn chàng trên núi vẫn còn vang bên tai:
“Hội nghị. Nội cái bàn tròn, bàn vuông, bàn chữ nhật cũng mất cả tuần lễ để bàn, trong khi mỗi ngày mỗi giờ ở đất nước này biết bao nhiêu thanh niên hai miền đã nằm xuống. Mày còn tin hội nghị hay sao?...” Hải ơi, mày có lý. Nhưng tao biết phải nói làm sao với vợ tao?
Tao sợ những giọt nước mắt của nàng.
“Khi lên trên ấy anh nhớ giữ gìn sức khỏe nghen anh.”
“Anh nhớ.”
“Đừng uống rượu nhiều nghen anh.”
“Anh hứa.”
“Đừng thức đêm nhiều nghen anh.”
Tội nghiệp nàng không hiểu. Muốn ngủ mà không dám ngủ. Không muốn uống rượu mà phải nốc cả thau. Hoàn cảnh đã làm tuổi trẻ thanh niên già như quả đất, em làm vợ lính em lại không hiểu sao.
“Anh nhớ khấn Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn mười lần khi ra trận nghen anh.”
“Anh hứa.”
(trích Mùa Xuân Ly Biệt, Văn Học số 151 năm 1971)