Văn xuôi mới của ta, như Chương thứ ba đã nói, sở dĩ thành lập được, một phần lớn là nhờ các báo chí. Trong các nhà viết báo có công lúc buổi đầu, phải kể Nguyễn Văn Vĩnh và ông Phạm Quỳnh.
Học giả Phạm Quỳnh
(1892 - 1945)
Cả cái văn nghiệp của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam phong, tạp chí ấy trong một thời kỳ, đã thành một cơ quan chung cho các học giả cùng theo đuổi một chủ đích với ông . Vậy ta cần nói đến tạp chí ấy trước .
Tạp chí Nam phong – Nam phong tạp chí xuất bản tự tháng Juillet năm 1917, đến tháng Décembre năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm và 210 số. Kể trong các tạp chí đã ra đời ở nước ta, tạp chí ấy là tờ xuất bản được liên tiếp và lâu hơn cả.
A) Tình hình quốc văn hồi tạp chí Nam phong ra đời - Muốn nhận rõ ảnh hưởng của tạp chí Nam phong, cần phải nhắc qua lại tình hình quốc văn ở nước ta hồi tạp chí ấy ra đời. Lúc ấy, trừ các bản dịch tiểu thuyết Tàu ra tiếng ta, chưa hề có sách quốc văn xuất hiện. Trong nước, chỉ có vài tờ báo chí (Lục tỉnh tân văn ở Nam kỳ, Trung Bắc tân văn và Đông dương tạp chí ở Bắc kỳ) và thiếu hẳn một cơ quan khảo cứu về học thuật tư tưởng để cho người trong nước có thể chỉ xem quốc văn mà mở mang trí thức được .
B) Mục đích của tạp chí Nam phong - Tạp chí ấy có hai mục đích chính sau này:
1. Đem tư tưởng học thuật Âu – Á diễn ra tiếng ta cho những người không biết chữ Pháp hoặc chữ Hán có thể xem mà lĩnh hội được.
2. Luyện tập quốc văn cho nền văn ấy, có thể thành lập được .
C) Sự thực hành của bản chương trình ấy - Muốn thực hành bản chương trình ấy, các nhà biên tập tạp chí Nam phong làm các việc sau này:
1. Viết các bài khảo cứu về triết học, khoa học, văn chương, lịch sử của Á đông và của Âu tây;
2. Dịch các tác phẩm về triết học, văn học nguyên viết bằng chữ nho hoặc chữ Pháp;
3. Sưu tập các thơ văn cổ của nước ta (cả chữ nho và tiếng nôm).
4. In các sách cũ của nước ta ( như bộ Lịch triều hiến chương loại chí)
D) Ảnh hưởng của tạp chí Nam phong - Tạp chí Nam phong đã có ảnh hưởng về hai phương diện:
1. Về đường văn tự, tạp chí đã:
a. Sáp nhập vào tiếng ta nhiều danh từ triết học, khoa học mới mượn ở chữ nho;
b. Luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới.
2. Về đường học vấn, tạp chí ấy đã:
a. Phổ thông những điều yếu lược của học thuật Âu tây;
b. Diễn đạt những điều đại cương trong các học thuyết cũ của Á đông ( Nho học, Phật học, v.v) và bảo tồn những điều cốt yếu trong văn hóa cũ của nước ta (văn chương, phong tục, lễ nghi).
Tác phẩm của ông Phạm Quỳnh – Ông Phạm Quỳnh vừa làm chủ nhiệm và chủ bút tạp chí Nam phong. Tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:
A) Loại dịch thuật – Ông có dịch các đoạn văn hoặc các tác phẩm của Âu tây, có phần thiên về triết học (Phương pháp luận, Discours de la méthode của Descartes, N.P., số 3 trở đi), luân lý (Sách cách ngôn. Manuel của Epictète, Âu tây tư tưởng. 1929; Đời đạo lý, La vie sage, của Paul Carton, N. P. 1929-1932) hơn là tiểu thuyết và kịch bản (Tuồng Lôi xích le Cid, của Corneille, N.P., số 38-39; Tuồng Hòa Lạc, Horace , của Corneille, N.P., số 73-75).
B) Loại trứ tác - Trừ các bài luận thuyết, ký sự, đoản thiên đăng trên tạp chí ông có viết mấy tác phẩm ghi chép những điều quan sát, nghị luận trong các cuộc du lịch của ông: Mười ngày ở Huế (N.P ., số 10). Một tháng ở Nam kỳ (N.P., số 17, 19, 20), Pháp du hành trình nhật ký (N.P., 1922-1925).
C) Loại khảo cứu - Loại này là phần quan trọng nhất trong văn nghiệp của ông. Ông nghiên cứu ở các sách, rồi viết ra những bài chuyên khảo về học thuật Âu tây như văn minh luận (N. P., số 42) Khảo về các luân lý học thuyết của Thái tây (N.P., số 92 trở đi). Khảo về chính trị nước Pháp (N.P. số 31 trở đi). Thế giới tiến bộ sử (N.P., số 51 trở đi). Lịch sử và học thuyết của Rousseau (N. P. số 104) của Montesquieu ( N.P., số 108), của Voltaire (N.P., số 114-115); hoặc về học thuật Á đông như Phật giáo lược khảo (N. P., số 40). Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng (Nam phong tùng thư, 1928); hoặc về văn học nước ta như Tục ngữ ca dao N. P., số 46. Văn chương trong lối hát ả đào (N.P., số 69). Hán Việt văn tự (N. P. số 107 trở đi); Việt nam thi ca (N. P., số 64).
Phần nhiều những tác phẩm kể trên, sau khi đăng trên tạp chí, đều in lại trong bộ Nam phong tùng thư (Đông kinh ấn quán Hà nội xuất bản)
Kết luận – Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hoá cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân.
Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy.
Các Tác Phẩm Để Kê Cứu:
1. Nguyễn Văn Tố, L’oeuvre de M. Nguyễn Văn Vĩnh, BSEMT t. XVI. pp 40 – 68.
2. Thiếu sơn, Phê bình và Cảo luận Văn học Tùng thư, Editions Nam kỳ, Hà nội 1933.
3. Đào Đăng Vỹ, Enquête sur la jeunesse annamite, La jeunesse intellectuelle, V. – Les écrivains et les journalistes (La Patrie annamite, nos du 2-1-1937 et ss).